LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
BỒ TÁT GIỚI
(Ấn Độ - Trung Quốc - Việt Nam)
Thích Thái Ḥa
- Việt Nam
Theo Nguyễn Lang - Nhà Sử học Phật giáo, th́ trung tâm Luy Lâu là một
trung tâm Phật giáo sớm nhất ở Việt Nam, nó được thiết lập bởi các nhà
Tăng sĩ Đại thừa Phật giáo đến từ Ấn Độ, khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch.
(Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I - Nguyễn Lang, tr.17 - Lá Bối xb, 1977 -
Paris.)
Điều nhận định này có lư, nếu căn cứ vào sách Lư Hoặc Luận của Mâu Tử, đây
là một tác phẩm mà Mâu Tử đă viết vào thế kỷ thứ II, nhằm nêu lên chính lư
để loại bỏ những ngộ nhận đối với đạo Phật của một số thức giả bấy giờ.
Sách có đề cập sự ra đời, xuất gia, thành đạo, giáo hóa và Niết Bàn của
đức Phật; có đề cập đến người Phật tử tại gia thọ tŕ năm giới, th́ phải
ăn chay một tháng sáu ngày và phải sám hối những tội lỗi đă làm, để có
những sự tiến bộ mới trong sự tu tập tâm chí, c̣n các Bậc Sa môn th́ hành
tŕ 250 giới và phải ăn chay trường, giới này không phải được nghe bởi
hàng Ưu Bà Tắc, họ đi đứng th́ nghiêm túc có phép tắc uy nghi, ngày đêm
th́ giảng đạo, tụng kinh và hoàn toàn không tham dự thế sự.
Sự hiểu biết về đạo Phật của Mâu Tử vào thế kỷ thứ II như vậy là rất chính
xác. Và như vậy, th́ Mâu Tử học đạo với ai? Chắc là ông ta đă học đạo với
các Bậc Tăng sĩ Đại thừa, v́ chỉ có những vị Tăng sĩ này mới dạy tín đồ ăn
chay kỳ, c̣n các Ngài th́ ăn chay trường, đúng như sách Lư Hoặc Luận đă
nói.
V́ sao các Tăng sĩ Đại thừa ăn chay trường, v́ các Ngài ngoài thọ Tỷ khưu
giới ra, các Ngài c̣n hành tŕ Bồ tát giới nữa, đó là giới dựa trên nền
tảng của Bồ đề tâm mà hưng khởi Đại trí và Đại bi, có năng lực yêu thương
và nhiếp hộ hết thảy chúng sanh, không nở làm tổn hại chúng sanh dưới bất
cứ h́nh thức nào.
Rơ ràng hành tŕ giới luật của các Bậc Sa môn như Mâu Tử nói, không những
có đồng thời với Mâu Tử mà phải có trước đó, nghĩa là ít ra tinh thần giới
luật như vậy, phải có trên đất nước Việt Nam khoảng thế kỷ đầu.
Lại nữa, trong sách Lư Hoặc Luận, Mâu Tử đă giải thích một số thắc mắc về
cách thực hành Bồ tát dạo qua hạnh thí xả của Thái tử Tu Đại Noa (Sudàna)
(Theo Bản Sanh Kinh.) như sau:
"Ngoại nhân hỏi: Ở trong kinh Phật kể rằng: Thái tử Tu Đại Noa lấy tài sản
của phụ vương mà bố thí cho người lạ, lấy voi báu mà tặng cho kẻ ghét
ḿnh, đem vợ con mà cho người khác, thế là không quư trọng người thân, mà
quư trọng kẻ khác là trái ngược với lễ, không thương người thân mà thương
kẻ khác là trái ngược với đức hạnh. Tu Đại Noa không phải là người nhân
từ, thế mà đạo Phật rất tôn trọng ông ta, th́ đâu không phải là lạ đời?
Ngài Mâu tử đáp: "Thái tử Tu Đại Noa quán xem sự vô thường của cuộc đời,
tài sản không phải là báu vật thật sự, nên tùy ư bố thí. Nhờ vậy mà nước
của cha được vận may, kẻ oán thù không thể xâm hại”.
Qua sự thắc mắc của ngoại nhân và sự trả lời của Mâu Tử ở trong sách Lư
Hoặc Luận về sự thực hành Bồ tát đạo như vậy, cho chúng ta thấy rằng, các
kinh Bản Sinh bấy giờ đă truyền bá sâu rộng trong quần chúng, cũng như
trong thành phần trí thức Việt Nam. Và tinh thần thọ tŕ Bồ tát giới, thực
hành Bồ tát đạo để thành Phật đă có mặt trên đất nước Việt Nam muộn lắm là
ở thế kỷ thứ II.
Lại nữa, căn cứ Lục Độ Tập Kinh, một bản kinh được dịch sớm nhất trên đất
Giao Chỉ bởi Tăng sĩ Khương Tăng Hội, th́ tinh thần Bồ tát giới, thực hành
Bồ tát đạo có trên đất nước Việt Nam lúc bấy giờ lại rất cụ thể.
V́ nội dung của kinh này là thuật lại tinh thần Bồ tát đạo của tiền thân
đức Phật và các vị Bồ tát. Và chính do thực hành tinh thần ấy, mà ngày nay
đức Phật Thích ca đă thành Phật, và các vị Bồ tát rồi cũng sẽ thành Phật.
Lục Độ Tập Kinh do Ngài Khương Tăng Hội dịch có tám cuốn, ba cuốn đầu nói
về Bố thí độ, các cuốn sau th́ mỗi cuốn đều nói về một độ trong các độ c̣n
lại.
Chỉ đọc đề kinh, chứ chưa bàn đến nội dung cũng đủ biết rằng, đây là một
bộ kinh đề cập đến tinh thần hành Bồ tát đạo, thực hành Bồ tát giới.
Vậy tinh thần Bồ tát giới ở trong kinh này là như thế nào?
Kinh nói: "Những kẻ cuồng ngu bạo ngược, ưa tàn hại chúng sanh, tham lam
trộm cắp của kẻ khác, buông lung theo dâm dục, uế trược, nói lời hai lưỡi,
nhục mạ thô ác, nói lời dối trá thêm thắt. Tâm tham lẫn, sân hận và ngu
si. Nguy hại người thân, giết hại bậc Thánh, báng bổ Phật pháp, nhiễu loạn
các bậc Hiền Thánh, ăn trộm tài sản nơi tín ngưỡng, ôm ḷng phản bội, tệ
ác, phá hủy Tam Bảo, đó là những tội cực ác.
Thà đến chỗ triều đ́nh, phố thị chịu nỗi khổ róc thịt, thân chịu ướp muối
phơi khô, chứ đă tín kính Tam bảo, thề nguyện tế độ cùng khắp chúng sanh,
đền trả bốn ân th́ trọn đời không thể nào làm những tội ác ấy. (Lục Độ Tập
Kinh IV, tr.16 - ĐTTT 3.)
Qua nội dung đă dẫn ở trên, cho chúng ta thấy rằng, giới tướng của Bồ tát
lúc bấy giờ vẫn lấy Thập Thiện giới làm căn bản và có thêm những điều răn
cần thiết như sau:
- Không được làm nguy hại người thân.
- Không được giết hại Bậc Thánh.
- Không được báng bổ Phật pháp.
- Không được nhiễu loạn các Bậc Hiền Thiện.
- Không được ăn trộm tài sản nơi tín ngưỡng.
- Không ôm ḷng tệ ác, phản bội.
- Không phá hủy Tam Bảo.
Kinh c̣n nêu rơ mục đích và lư tưởng tŕ giới của Bồ tát như sau:
"Bồ tát đời đời thực hành giáo pháp để thành tựu Như Lai là Bậc Vô sở
trước Chánh chơn, là Bậc Chánh giác tối thượng của đạo, là Bậc Thầy của
trời và người". (Sách đă dẫn, tr.17, nt.)
Chính trong Lục Độ Tập Kinh c̣n nêu rơ những tấm gương tŕ giới kiên cố,
cao khiết của các vị Bồ tát, kể cả tiền thân đức Phật Thích ca Mâu Ni
trong thời kỳ đang thực hành Bồ tát đạo.
Như vậy, Lục Độ Tập Kinh do Tăng sĩ Khương Tăng Hội, dịch vào thế kỷ thứ
III-TL, trên đất Giao Chỉ đă làm cho chúng ta thấy rằng, vào thời kỳ này
tinh thần thọ tŕ Bồ tát giới đă phát triển và phổ biến trên đất Giao Chỉ
lúc bấy giờ là như thế nào.
Khương Tăng Hội là người Việt gốc Ấn, v́ cha mẹ Ngài là người Sogdiane
(Khương Cư) - Ấn Độ, đến cư ngụ tại Giao Chỉ. Ngài rất giỏi Phạn ngữ và
Hán ngữ, tu tập tinh cần, đă dịch nhiều kinh điển từ Phạn sang Hán.
Theo sách Cao Tăng truyện, Ngài đă đến Kiến Nghiệp tức thủ đô nước Ngô
(Nam Kinh ngày nay) vào năm Xích Ô thứ 10, tức là năm 255, và Ngài đă tịch
trên đất Trung Hoa năm 280 TL.
Kể từ Ngài Khương Tăng Hội đến các Tăng sĩ về sau trên đất Giao Chỉ, chắc
chắn các Ngài không những là các Tăng sĩ hành tŕ giới Thanh Văn mà c̣n
hành tŕ giới Bồ tát nữa.
Vào thế kỷ thứ VI, khi Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Việt Nam ở tại chùa Pháp
Vân, th́ bấy giờ đă có Thiền sư Quán Duyên là vị thông hiểu và đă dạy Phật
pháp cho đồ chúng tại đó. Trong đồ chúng ấy có Ngài Pháp Hiền đă đắc pháp
với Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, và Tổ đă nhận định về Ngài Pháp Hiền như sau:
"Nay lại có Pháp Hiền Thượng Sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Đa Lưu Chi, truyền bá
tông chỉ Tam Tổ, là một vị Bồ tát sống, cư trú tại chùa Chúng Thiện, dạy
dỗ giáo hóa đồ chúng có hơn 300 người, không thua kém ǵ Phật giáo ở Trung
Quốc".
Lại nữa, Kinh Tượng Đầu Tinh Xá là bản kinh do Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch
và truyền dạy vào thế kỷ thứ VI, đă đề cập đến tên Bồ đề, tức là bản chất
của Bồ tát giới như sau:
"Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Bồ đề siêu việt tam giới, siêu
việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không c̣n địa điểm nương tựa.
Lại nữa, Văn Thù! An trú vào nơi không an trú là an trú Bồ đề, an trú ở
nơi không chấp trước tức là an trú Bồ đề; an trú ở nơi pháp không tức là
an trú Bồ đề; an trú ở nơi pháp tính tức là an trú ở nơi Bồ đề; an trú ở
nơi chân lư tất cả các pháp không có thể tướng là an trú Bồ đề, an trú nơi
vô lượng tín là an trú ở nơi Bồ đề, an trú ở nơi không tăng, không tăng
giảm là an trú Bồ đề...". (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I - Nguyễn Lang,
tr.17 - Lá Bối xb, 1977 - Paris.)
Thế kỷ thứ X, Ngài Đỗ Pháp Thuận ngoài việc hướng dẫn vua trị nước, an
dân, Ngài c̣n biên tập cuốn Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn, tiếc rằng cuốn sách
này hiện nay không c̣n, nhưng với đầu đề của sách cũng cho chúng ta đoán
chắc rằng, nội dung có thể nói lên tinh thần sám hối bằng cách kính lễ
hoặc tŕ tụng hoặc thực hành theo tinh thần Bồ tát.
Cũng thế kỷ này, Thiền sư Viên Chiếu (998-1090), Ngài tu tập không những
giỏi về pháp Tam Quán của kinh Viên Giác, mà Ngài c̣n rất giỏi ngôn ngữ
của thi ca, và chính Ngài là một bậc thi tài bấy giờ.
Ngài đă soạn các tác phẩm:
- Tán Viên Giác Kinh.
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
- Tham Đồ Hiển Quyết.
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Bấy giờ, vua Lư Nhân Tông cho đem cuốn Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn tặng
Vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống giao cho các Thiền sư chùa Tướng Quốc
xem và bảo rằng, có chỗ nào đáng sửa th́ sửa lại. Nhưng, các Thiền sư đă
thưa với Vua rằng: "Đây là Đấng hóa thân Đại sĩ ra đời ở phương Nam, giảng
giải kinh điển rất tinh vi, chúng tôi không dám thêm bớt ǵ nữa". (Sách đă
dẫn, tr.176, nt.)
Nh́n vào hai tác phẩm - Thập Nhị Bồ Tát Tu Chứng Đạo Tràng và Dược Sư Thập
Nhị Nguyện Văn, cũng để thấy rằng, tinh thần hành tŕ Bồ tát giới và phổ
biến Bồ tát đạo của Ngài Viên Chiếu vào thời bấy giờ, trong thiền viện
cũng như trong tầng lớp xă hội.
Thiền sư Trí Bảo (?-1190) là cậu của Thái úy Tô Hiến Thành, thời vua Lư
Anh Tông. Theo Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục, th́ Ngài Trí Bảo
xuất gia tu học tại chùa Thanh Tước, ở núi Du Hỷ. ngài tu học đạt đạo
nhưng rất khiêm tốn, gặp bất cứ ai dù giàu hay nghèo đều chắp tay cung
kính và tránh đường cho họ đi, Ngài thường thực hành hạnh Bồ tát bằng cách
bắt lại cầu cống, sửa sang đường sá, hoặc xây tháp làm chùa cho mọi người
tu tập, Ngài c̣n giỏi về thi ca. Câu thơ:
"Tương tức măn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân".
(Quen biết đầy thiên hạ
Tri âm được mấy người.)
Tác giả chính là Ngài.
Và tinh thần tu tập Bồ tát giới, hành tŕ Bồ tát đạo của Ngài, chúng ta có
thể thấy rất rơ qua bài kệ sau đây:
"Bồ tát tư tài tri chỉ túc,
Ư tha từ bi bất xâm dục.
Thảo diệp bất dữ, ngă bất thủ,
Bất tưởng tha vật đắc như ngọc.
Bồ tát tự thê phương tri túc,
Như hà tha thê khởi tham dục?
Ư tha thê thiếp tha sở hộ,
An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc".
Dịch:
Tài sản đối với Bồ tát th́ luôn biết đủ và ngừng lại, ḷng từ bi đối với
người th́ không xâm phạm đến sắc dục; dù chỉ là chiếc lá ngọn cỏ mà người
không cho th́ không nên lấy, không nghĩ tưởng đến tài vật của kẻ khác, th́
đức sáng như ngọc kim cương.
Hàng Bồ tát tu tại gia, th́ đối với vợ ḿnh nên biết đủ; đối với vợ của
người khác, th́ có người khác bảo hộ, tại sao tự tâm ḿnh lại khởi lên ư
tưởng tà vạy?
Bài kệ này, Ngài Trí Bảo đă giảng dạy cho Tăng sĩ và cư sĩ lúc bấy giờ đă
theo học với Ngài.
Trong suốt thế kỷ đầu cho đến đời Lư, thọ tŕ Bồ tát giới có thể nằm trong
hàng Tăng sĩ, c̣n hàng cư sĩ chỉ có thể hành tŕ pháp Tam quy, Ngũ giới mà
thôi và nếu có vị nào trong hàng cư sĩ muốn tiến xa trong sự tu tập, th́
cũng có thể hành tŕ thêm Thập thiện giới.
Đối với hàng vua chúa, quan quyền suốt những thế kỷ này, có những vị có
đức tin đối với Phật pháp một cách sâu xa và có tâm nguyện hộ tŕ, nhưng
sự học tập Phật pháp và sự đạt ngộ tâm linh không bằng các vua quan đời
Trần.
Vua Trần Thái Tông (1218-1277), vượt thành với mộng xuất gia không thành,
vua phải nghe lời Thầy là Trúc Lâm Quốc Sư, xuống núi để lo việc chăn dân,
lấy dân ư làm ư của ḿnh trong sứ mệnh điều hành đất nước.
Mặc dù, vua rất bận rộn việc đời, nhưng không xao lăng việc đạo, vua nói:
"Ṛng ră trong mười năm trời, mỗi khi có cơ hội việc nước nhàn rỗi, Trẫm
lại tụ họp các bậc Kỳ-Đức để học hỏi Đạo Thiền, các kinh điển của các hệ
thống giáo lư chính, không có kinh nào là Trẫm không nghiên cứu". (Bài tựa
Thiền Tông Chỉ Nam - Trần Thái Tôn.)
Nếu chúng ta đọc các tác phẩm của Vua c̣n để lại trong Khóa Hư Lục, th́
chúng ta thấy rằng; Vua không phải chỉ là một vị minh quân hiểu đạo, hộ
đạo, ái đạo mà c̣n là bậc hành đạo rất thâm sâu, có sự chứng ngộ của tâm
linh cao tuyệt, có ḷng từ bi đối với hết thảy mọi người và chúng sanh.
Những điều này đă hiện rất rơ trong bài văn Giới Sát Sanh của Vua như sau:
"Xét đến bản chất đồng nhau của loài noăn sinh, thai sinh, thấp sinh và
hóa sinh, th́ tính thấy, nghe, hiểu biết của họ đâu có ǵ khác nhau!
Nguyên nhân chỉ là do họ tạo nghiệp tích tụ những điều oan trái, do đó mà
nhận lấy những danh hiệu khác nhau đó thôi; nhưng thật ra những loài ấy
cũng có gốc rễ đạo lư từ nơi loài người.
Ngày nay họ sanh ra nơi quần loại lớn bé có khác nhau, hoặc họ từng là bạn
bè, anh em, bây giờ thay áo, đổi mũ, biến thành những loài có lông, có
cánh, có vảy, chừ vợ quên chồng, chồng quên vợ, con trái với cha mẹ, cha
mẹ trái với con, thấy chúng khác đầu, khác mặt, liền bắt vào chặt chân mổ
ruột, chúng cũng tham sống, sợ chết có khác ǵ chúng ta, nhưng phải chịu
đau thương thống thiết, không nói được nên lời!
Nay, quư vị giết chúng rồi chúng sẽ trở lại giết quư vị, chúng ăn thịt quư
vị, quư vị ăn thịt chúng, cứ như vậy mà vĩnh viễn đắm ch́m trong sự oán
trách thù hận, lâu dài, đời đời vay trả nợ nhau, kiếp kiếp trả thù oán
nhau.
Người biết phản tỉnh, th́ c̣n trở lại với quê hương, xứ sở, kẻ buông lung
tâm tính, th́ vĩnh kiếp trầm luân địa ngục.
Sách Nho th́ bảo: Hăy thể hiện tính nhân từ, ban rải tâm đức hạnh. Đạo Đức
kinh th́ khuyên: Hăy yêu thương những loài vật ham sống. C̣n đức Phật th́
dạy: Hăy phụng tŕ giới ngăn ngừa sự giết hại".
Và trong bài văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm của Vua, Vua đă nói rất rơ giá trị
của vàng bạc, của thân thể và đạo lư.
Đối với vàng bạc th́ con người bảo nó là quư, nhưng nó không quư bằng thân
mạng con người, và thân mạng con người là nhờ sinh ra và lớn lên trong xứ
sở có văn hóa, có đầy đủ các căn.
Tuy nhiên, thân thể ấy, vẫn không quư báu bằng chỗ tột cùng của Đạo. Vua
nói: Chính đức Thế Tôn cầu Đạo mà Ngài đă xả thân để cứu khổ.
Vua c̣n nói: "Than ôi! Thân mệnh là rất trọng mà c̣n nên bỏ để mong cầu
đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, huống chi là những của báu tầm thường như vàng
bạc, ngọc ngà lại tiếc nuối làm chi". (Khóa Hư Lục - Trần Thái Tôn.)
Bởi do tinh thần tu tập hiểu đạo và có những chứng ngộ tâm linh sâu xa của
Vua Trần Thái Tôn như vậy, nên đă làm cho Phật giáo vào thời đại này, có
những đường nét độc đáo và thâm sâu vào ḷng quần chúng hơn so với Phật
giáo đời Lư.
Vào thời đại này, không những mở ra cho Phật giáo Việt Nam một thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử mang tính nhập thế tích cực, mà c̣n mở ra cho Phật giáo
Việt Nam những đường nét độc đáo như: Tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục, triết
học,... và đồng thời tạo nên sức mạnh đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để
bảo vệ và phát triển về ư thức độc lập dân tộc.
Vua Trần Nhân Tông đă có tâm nguyện xuất gia từ nhỏ, nhưng không được Phụ
hoàng là Trần Thánh Tông cho phép, bởi vậy Vua phải miễn cưỡng lên ngôi,
sau đó truyền ngôi lại cho con là Trần Anh Tông và xuất gia.
Khi chưa xuất gia tu học, Vua đă học Phật với Tuệ Trung Thượng Sĩ, tức là
một vị cư sĩ có sở học rất độc đáo và uyên bác về đạo Phật, nhất là Thiền
tông.
Mặc dù chưa xuất gia, nhưng Vua đă có nếp sống rất thanh tịnh, Vua đă giữ
ǵn giới hạnh và ăn chay trường.
Có lần, Vua mời Văn Túc - Vương Đạo Tái (con của Trần Quang Khải) đến
chơi, ăn cơm ở Dưỡng Đức Điện, Vua nh́n Đạo Tái ăn và làm bài thơ:
"Món quay cước đỏ thắm
Món Mă yên vàng thơm.
Sơn Tăng giữ tịnh giới,
Cùng ngồi không cùng ăn".
Mặc dù, đến năm 1299, Vua mới thực hiện hạnh nguyện xuất gia, nhưng thời
gian trước đó Vua đă tự ví ḿnh là một Sơn Tăng hành tŕ trai giới rất
nghiêm tịnh.
Sau khi xuất gia, Vua có đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng, đă nỗ lực tu tập
và truyền bá Phật pháp trong nhân gian, Vua dạy dân chúng phải hành tŕ
Thập Thiện giới, đây là giới học làm nền tảng đạo đức để xây dựng hạnh
phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người trong tinh thần Phật giáo.
Năm 1304, Vua Trần Anh Tông đă thỉnh Ngài Điều Ngự Giác Hoàng vào Đại Nội
và xin thọ tại gia Bồ tát giới.
Năm 1305, Vua Trần Nhân Tông tức Điều Ngự Giác Hoàng đă tổ chức lễ truyền
thọ Tỷ khưu và Bồ tát giới cho đệ tử của ḿnh là Pháp Loa.
Trước khi Điều Ngự Giác Hoàng mất, Ngài đă trao truyền tâm ấn cho Pháp
Loa, bấy giờ Ngài Pháp Loa kế thừa Ngài Điều Ngự Giác Hoàng, lănh đạo Phật
giáo Trúc Lâm và đă làm nhiều Phật sự quan trọng như:
- Năm 1319, Ngài đă trao truyền giới pháp tại gia cho Hoa Dương Công chúa.
- Năm1320, Ngài đă trao truyền Bồ Đề Tâm Giới cho Tuệ Nhân Đại Vương và
Quốc Phụ Thượng Tể là Quốc Chẩn.
- Năm 1323, Văn Huệ Vương và Tuy Huệ Vương đến chùa Báo Ân xin thọ Bồ Đề
Tâm Giới và Pháp quán đỉnh.
- Năm 1324, Chiêu Hoàng Thái Phi xuất gia, thọ Bồ tát giới... và con cháu
trong Hoàng tộc phát tâm xuất gia tu tập rất nhiều.
Ngài Pháp Loa đă có những bản nguyện rộng lớn như sau:
"Chư Phật và Bồ tát có những hạnh nguyện nào, tôi đều tha thiết cầu xin
t́m học và làm theo. Dù chúng sanh có khen chê, kính trọng, dù kẻ bố thí
hay xâm đoạt, nhưng khi mắt thấy tai nghe sự khổ đau của họ, th́ đều xin
cứu độ, khiến cho hết thảy đều bước lên nấc thang giác ngộ". (Theo sách
Tam Tổ Thực Lục.)
Do Ngài có những đại nguyện rộng lớn như vậy, nên trong cuộc đời tu tập và
hoằng pháp, Ngài đă làm những Phật sự đưa lại những lợi ích cho chúng
sanh.
Kế thừa Ngài Pháp Loa là Ngài Huyền Quang, ngài này cũng tiếp tục phát huy
tinh thần Phật giáo Đại thừa, trong đó gồm cả Thiền học, Tịnh độ và Mật
tông.
Nhưng, sau khi Ngài Huyền Quang viên tịch, Phật giáo ở giai đoạn này đă
bắt đầu xuống dốc bởi nhiều lư do:
1. Tăng sĩ đông đảo phát sinh nhiều quan điểm dị biệt.
2. Người xuất gia tu đạo không hẳn là người hảo tâm, không hẳn là người v́
sự nghiệp giải thoát, mà trong đó lắm người v́ danh lợi, lắm người giới
hạnh bị khuyết tật và trở nên hèn mạt.
3. Các vua chúa sau Trần Anh Tông không c̣n có sự hiểu biết và hành tŕ
Phật pháp một cách sâu xa như các vua chúa trước đó.
4. Các Nho sĩ lợi dụng một số khuyết tật của một số Tăng sĩ để xuyên tạc
Phật giáo trong triều đ́nh, cũng như ngoài quần chúng.
5. Các Bậc chân tu th́ ẩn cư.
Khi đất nước bước qua thế kỷ XIV, vào triều đại Hậu Lê, một triều đại có
xu hướng học tập, hướng đến khoa bản, danh vọng, chứ không phải học hỏi để
khai phóng tâm linh.
Lại nữa, tinh thần vô ngă, vị tha trong đạo Phật không được các nhà trí
thức Phật giáo bấy giờ khai triển triệt để, nhằm phụng sự con người, mà
trái lại tinh thần ấy bị xuyên tạc méo mó bởi các Nho sĩ bấy giờ.
Đất nước từ Hậu Lê đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, và triều Nguyễn thống nhất
sơn hà, trị v́ cho đến thời Pháp thuộc, măi đến khi Vua Bảo Đại bị truất
phế, đất nước bị chia hai vào năm 1954.
Suốt chiều dài năm thế kỷ của đất nước, Phật giáo Việt Nam cũng thăng trầm
trong những nỗi thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Nhưng, điều đáng nói ở đây, là sự suy đồi của Phật giáo ở giai đoạn này là
sự suy đồi về đạo hành và trí hành, về văn hóa và tư tưởng, chứ không hẳn
suy đồi về mặt tín ngưỡng.
Các Vua Lê cũng như Vua chúa triều Nguyễn cũng đều sùng mộ Phật giáo, vẫn
xây chùa, đúc chuông, đúc tượng, vẫn mời các Tăng sĩ đến cung đ́nh để cầu
mưa, giải hạn.
Chính mùa hạ năm 1434, Vua Lê Thái Tông sai các quan rước Phật từ chùa
Pháp Vân về kinh đô để làm lễ cầu mưa, và dựng trai đàn chẩn tế ngay ở
điện Cần Chánh để tu tạo công đức. Rằm tháng bảy năm ấy, Vua lại cho tổ
chức đại hội Vu Lan, mời chư Tăng đến cầu nguyện, rồi cúng dường chư Tăng,
ân xá năm mươi tù nhân.
Năm 1448, có nạn hạn hán, Vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho các quan văn vơ
phải ăn chay và giữ ǵn trong sạch đến chùa Báo Ân để làm lễ cầu mưa. Vua
đích thân lạy Phật, các Nho thần chẳng ưa chi Phật, nhưng cũng lạy theo.
Vua c̣n sai Thái úy Lê Khả đến chùa Pháp Vân ở xă Cổ Châu, rước tượng Phật
ở chùa này đem về tôn trí tại chùa Báo Thiên ở kinh thành, rồi thỉnh chư
Tăng đến tụng kinh, sám hối và cầu nguyện. Vua và Hoàng hậu đều đích thân
lạy Phật, đích thân tổ chức trai Tăng cúng dường để cầu nguyện cho mưa
thuận gió ḥa.
Vua lại c̣n xuống chiếu tự trách ḿnh như sau:
"Từ năm trước đến nay, tai dị xảy ra luôn, như lũ lụt, hạn hán, sâu bọ
không năm nào không có. Hoặc là chính trị của Trẫm, trên không thuận ḷng
trời, dưới chưa thỏa chí dân, mà sinh ra thế chăng? Hoặc có đại thần giúp
đỡ, không phải là người giỏi, điều ḥa trái phép, xếp đặt sai lễ mà sinh
ra chăng?
Nay, các ngươi, trên từ thần liêu trong ngoài, dưới đến sĩ dân, có người
nào v́ Trẫm dám nói, chỉ ra những việc của Trẫm và tể thần hại đến nhân
dân chính sự chăng?”.
Mặc dù, Vua xuống chiếu như vậy, nhưng kẻ trung thực với quốc dân th́ ít
mà người nịnh hót với Vua th́ nhiều; kẻ trung thành với điều phải th́ ít,
nhưng những kẻ a tùng dối trá th́ lắm, do đó các Nho sĩ vẫn t́m cách xuyên
tạc Phật giáo đủ điều, đến nỗi đẩy các Tăng sĩ vào chỗ ẩn cư.
Các Ngài đă ẩn cư thiệt, nhưng không phải v́ vậy mà để cho những kẻ Nho
sĩ, mặc t́nh thao túng triều đ́nh và thao túng nhân dân.
Hai tác phẩm Quán Âm Thị Kính và Quán Âm Nam Hải đă được phổ biến rộng rải
từ triều Lê và ảnh hưởng sâu rộng về mặt đạo đức tín ngưỡng trong ḷng
nhân dân, không những vào buổi đương thời mà ngay cả bây giờ nữa.
Chuyện Quán Âm Thị Kính ra đời vào lúc nào và do ai sáng tác th́ không
biết, nhưng nó rất phổ biến vào đời Lê và chắc chắn nó được h́nh thành từ
những nhà bác học Phật giáo.
Nội dung của truyện như sau: "Có một chàng trai xuất gia, tinh tấn tu hành
liên tiếp trong chín kiếp, đến kiếp thứ mười là kiếp cuối cùng để thành
Phật, chàng thác sinh làm con gái nhà họ Măng, huyện Hồ Nam, quận Lũng
Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly.
Nàng tên là Thị Kính, có tài, có sắc, đầy đủ đức hạnh, lớn lên cha mẹ gă
cho chàng Thiện Sĩ họ Sùng.
Thiện Sĩ lo việc đèn sách, nàng lo việc nội trợ. Nhân một đêm đọc sách
Thiện Sĩ thấy mệt, nằm ngă lưng xuống ngủ, Thị Kính ngồi may vá một bên,
trông thấy sợi râu mọc ngược bên cạnh cằm của Thiện Sĩ, nàng cầm dao lên
định cắt sợi râu, không ngờ Thiện Sĩ cựa ḿnh tỉnh dậy, tưởng là vợ giết
ḿnh, liền la làng chuyển xóm lên. Thị Kính cố sức giải bày, nhưng Thiện
Sĩ không tin, cuối cùng nàng bị đuổi về nhà cha mẹ.
Sau đó, Thị Kính cải dạng thành nam xin đi tu, ở một chùa thật xa tên là
chùa Vân, với pháp danh Kỉnh Tâm, dù ăn mặc nâu ṣng đơn giản, nhưng chú
tiểu Kỉnh Tâm rất đẹp lạ thường.
Thị Mầu - con gái của Ông Phú hộ trong làng thường đến chùa và đem ḷng
thương yêu trộm, rồi t́m đủ mọi cách quyến rũ, nhưng chú Kỉnh Tâm một mặt
khước từ.
Thị Mầu đă t́m cách có thai với tên đầy tớ trong nhà, sau đó hô hoán là có
thai với chú Kỉnh Tâm, niềm oan đó chú Kỉnh Tâm phải gánh chịu mọi sự bôi
bác, phỉ nhổ, mọi h́nh phạt cay đắng của dân làng.
Chùa phải cho chú Kỉnh Tâm ở ngoài cổng Tam Quan, Thị Mầu sau khi sinh con
đă đem con đến cổng chùa giao cho chú Kỉnh Tâm, Kỉnh Tâm phải đi xin sữa
để nuôi cậu bé mỗi ngày, và mỗi ngày chú đều bị dân làng mắng nhiếc thậm
tệ, cứ như vậy mỗi ngày qua, chú Kỉnh Tâm nuôi dưỡng chú bé lớn khôn.
Sau đó, chú Kỉnh Tâm sức khỏe yếu dần, biết ḿnh không c̣n sống được bao
lâu nữa, nên đă viết bức thư để lại dặn cậu bé rằng, sau khi ta chết th́
trao bức thư này cho vị trú tŕ.
Đến khi chú Kỉnh Tâm chết, mọi người mới vỡ lẽ ra Kỉnh Tâm là gái giả trai
để tu hành.
Trong lúc chùa và dân chúng lập đàn làm chay cầu siêu độ cho chú Kỉnh Tâm,
th́ Phật Thiên Tôn hiện ra trên mây ngũ sắc, truyền cho Kỉnh Tâm thành
Phật hiệu là Quán Âm.
Khi thành Phật Quán Âm, Ngài đă cứu độ cả cha mẹ, người t́nh cũ, con thơ
và cả hằng hà sa chúng sanh khác".
Qua cốt truyện của Quan Âm Thị Kinh, một tác phẩm Phật giáo rất phổ biến ở
triều Lê chúng ta thấy ǵ?
Hẳn nhiên, tùy theo góc độ mà mọi người đứng nh́n để phát hiện vấn đề theo
cách thấy của ḿnh.
Nhưng, ở đây chúng tôi đứng từ tinh thần Bồ tát giới, tu tập Bồ tát đạo để
nh́n, th́ cốt truyện có những tinh thần như sau:
1. Nêu cao tinh thần nhẫn nhục độ trong Bồ tát đạo.
2. Tinh thần tu tập là phải ở trong nghịch cảnh, ở trong sự bạc bẻo khó
khăn. Nói cách khác, sự thành tựu đạo quả là sự thành tựu ở ngay nơi mảnh
đất sinh tử đầy ngang trái và khổ đau này.
3. Đạo Phật không hèn yếu như một số Nho sĩ xuyên tạc và hiểu lầm, đạo
Phật đủ khả năng để chịu đựng mọi ngang trái, mọi bạc đăi đối với ḿnh,
đạo Phật c̣n trung hiếu hơn cái trung hiếu mà Nho sĩ đang đề cao cho triều
đ́nh trong sách lược trị dân.
4. Tinh thần trung hiếu trong đạo Phật rất bao la, siêu việt, chứ không
phải trung hiếu một cách tầm thường như các Nho sĩ đă học được từ giáo lư
Khổng - Mạnh là tam cương, ngũ thường, tam ṭng, tứ đức.
Bởi vậy, sau khi nghe đức Phật Thiên Tôn truyền trao cho Kỉnh Tâm làm
Phật, th́ Sư cụ ở chùa Vân liền ngâm:
"Nay bà Thị Kính hóa duyên,
Nam mô Phật, độ vô biên hằng hà.
Hóa thân được cả mẹ cha,
Ḱa là bạn cũ, nọ là con thơ.
Thế gian trông thấy sờ sờ".
Nên, tinh thần Quan Âm Thị Kính là tinh thần thực hành Bồ tát giới, thành
tựu Bồ tát đạo của Phật giáo trong triều Lê đó vậy.
Lại chuyện Quan Âm Nam Hải, do một vị Tăng đời Nguyên sáng tác, truyền vào
Việt Nam khoảng thế kỷ XIV-XV và đă lưu truyền trong dân gian rất phổ biến
suốt triều Nguyễn.
Nội dung cốt truyện Quan Âm Nam Hải như sau:
"Vua Diệu Trang ở nước Hưng Lâm sinh ba công chúa, công chúa thứ nhất là
Diệu Thanh, công chúa thứ hai là Diệu Âm và công chúa thứ ba là Diệu
Thiện.
Hai công chúa chị vâng lệnh vua cha đi lấy chồng, c̣n công chúa thứ ba là
Diệu Thiện chỉ muốn đi tu thôi.
Vua cha tức giận bắt công chúa Diệu Thiện giam ở ngoài vườn, hai chị và
hoàng hậu lén vua ra thăm công chúa và khuyên công chúa nên đi lấy chồng,
nhưng nàng có tâm nguyện dứt quyết đi tu thôi.
Vua cha liền bày mưu kế, sắp đặt cho công chúa đến tu một chùa lớn, nhưng
mật lệnh cho vị trú tŕ trong chùa là phải hành hạ công chúa, bắt công
chúa làm những việc nặng nhọc, để công chúa thối tâm tu hành, nhưng công
chúa vẫn không nản ḷng, vẫn siêng năng ngày đêm, ngồi thiền, niệm Phật,
lao tác mọi công việc.
Nhiều tuần lễ trôi qua, thấy Diệu Thiện không bỏ chùa, vua nghi là vị trú
tŕ không tuân theo lệnh ḿnh để đày đọa công chúa, nên đă ra lệnh đốt
chùa.
Diệu Thiện biết rằng, chính v́ do sự tu tập của chính ḿnh mà chùa bị đốt,
liền cắn ngón tay ngửa mặt lên trời mà cầu nguyện.
Vua hạ lệnh đem công chúa ra xử chém, nhưng lưỡi gươm khi đến cổ của Diệu
Thiện th́ bị găy hai. Đột nhiên trời tối sẫm xuống và có một con mănh hổ
nhảy vào mang Diệu Thiện đi lên núi để Diệu Thiện nằm ở đó rồi bỏ đi.
Diệu Thiện nằm thiêm thiếp, hồn nàng đi xuống âm phủ, chứng kiến bao nhiêu
cảnh tượng khổ đau rùng rợn của những người đă tạo ác nghiệp khi c̣n sống.
Trong khi chứng kiến những cảnh tượng đó, Diệu Thiện rất đau xót. Nàng
liền nhất tâm tŕ chú, niệm Phật. Do công đức từ bi ấy, cảnh giới địa ngục
liền thay đổi. Diêm Vương ban xá tất cả tội nhân trong mười tám địa ngục.
Hồn Diệu Thiện trở lại nhân gian nhập vào xác, người tỉnh dậy phân vân
chưa biết đi đường nào, th́ Phật Tổ Như Lai hóa thân làm chàng trai tuấn
tú, tới gần để thử tâm công chúa, nhưng Ngài thấy Diệu Thiện tâm nguyện tu
hành vững chắc, nên chỉ đường cho về núi Hương Tích ở Việt Nam, sau nhiều
năm tu hành ở núi này, công chúa đă trở thành Phật Quan Âm tại đây.
Sau này, Vua Diệu Trang bị bệnh nan y, Vua yết bảng cầu lương y, hứa rằng
nếu ai chữa lành bệnh th́ sẽ được trao ngôi. Bấy giờ, không có ai chữa
lành, th́ Quan Âm là Diệu Thiện hóa thân làm lương y vào chữa bệnh cho
Vua, xem mạch xong, lương y nói: Bệnh này không thể chữa trị, nếu không
xin được một tay và một mắt của một vị Tiên nữ trên núi Hương Tích và cam
quyết rằng, Vua cho người đến xin th́ Tiên nữ chắc sẽ sẵn ḷng bố thí.
Vua giữ lương y lại và cho sứ thần đi qua nước Đại Việt đến núi Hương
Tích, xin được một mắt một tay của Tiên nữ đem về để chữa, nhưng bệnh chỉ
thuyên giảm một nữa thân h́nh.
Lương y bảo phải xin nốt một mắt và một tay c̣n lại của Tiên nữ để làm
thuốc chữa lành hoàn toàn.
Mọi người thấy rằng đi xin như vậy là quá đáng, nhưng lương y nói rằng, vị
Bồ tát xả thân cứu người nên thế nào lên xin cũng được toại nguyện.
Kết quả là Tiên nữ bố thí tiếp phần c̣n lại, đem về chữa Vua khỏi bệnh,
Vua định truyền ngôi cho lương y, nhưng chưa kịp làm lễ th́ lương y đi
mất.
Sau khi lành bệnh, Vua đến núi Hương Tích để tạ ơn Tiên nữ.
Hoàng gia trên đường đến núi Hương Tích, th́ tại kinh đô Hương Lâm có cuộc
đảo chánh. Phật Quan Âm tức hóa thân Diệu Thiện sai người đem pháp thuật
cứu nguy t́nh thế, giải cứu Diệu Thanh và Diệu Âm.
Sau đó, Diệu Thanh và Diệu Âm cùng đi đến núi Hương Tích với phái đoàn
hoàng gia. Lúc đó Quán Âm hiện thân trở lại làm công chúa Diệu Thiện đứng
thẳng giữa động, hai mắt bị móc, hai tay bị cắt, máu chảy ṛng ṛng, Vua
và Hoàng hậu nhận ra là con gái của ḿnh, Hoàng hậu lăn ra khóc và bất
tỉnh.
Tiếp đến, Diệu Thiện nói: Ḿnh đă móc mắt, cắt tay để cứu cha, nhưng nếu
cha mẹ phát nguyện bỏ ác làm lành, tu hành theo đạo Phật, th́ bà sẽ có
mắt, có tay nguyên vẹn trở lại.
Vua và Hoàng hậu phát nguyện tu tập bỏ ác làm lành theo đạo Phật, lập tức
tay và mắt của Ngài Quan Âm hóa thân Diệu Thiện trở lại như cũ. Lúc ấy cả
gia đ́nh đều ở lại tu tập tại núi Hương Tích.
Sau đó, công chúa Diệu Thanh được thành tựu hạnh Văn Thù Bồ Tát, cưỡi con
voi Sư tử xanh. Công chúa Diệu Âm trở thành hạnh Phổ Hiền Bồ tát cưỡi con
voi trắng”.
Cốt truyện Quan Âm Diệu Thiện như vậy, được phổ biến sâu rộng, suốt trong
triều đại nhà Lê và cả nhà Nguyễn nữa.
Qua cốt truyện, chúng ta thấy rằng, tinh thần tu tập cầu đạo quả bồ đề,
giáo hóa chúng sanh, độ song thân và quyến thuộc, hiếu nghĩa trung tín của
đạo Phật rất là siêu việt, rất là rộng lớn, những tinh thần ấy mà có được
là chính nhờ tinh thần Bồ tát giới, thực hành Bồ tát đạo đó vậy.
Như vậy, qua cốt truyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Nam Hải là những
truyện mang tinh thần xả kỷ, nhẫn nhục, trung hiếu, đầy tinh thần từ bi và
trí tuệ của Phật giáo Đại thừa, tức là đạo lấy tinh thần Bồ tát đạo làm
nền tảng cho sự tu tập và hoằng pháp lợi sanh.
Tinh thần tu tập và hoằng pháp ấy, không những đă được sâu rộng trong quần
chúng Việt Nam lúc bấy giờ tiếp nhận và thực hành, mà ngay cả ngày nay đạo
Phật được phát triển lớn mạnh trên toàn cầu, cũng chính là nhờ tinh thần
của những người Phật tử tại gia cũng như xuất gia thực hành Bồ tát đạo
vậy.
Chúng ta có thể nói rằng, sau khi Phật giáo bị tuột dốc ở cuối đời Trần và
bị bài xích bởi các Nho sĩ triều Lê, nhưng Phật giáo vẫn tiếp tục có mặt,
vẫn tiếp tục tồn tại, dù là sự có mặt của Phật giáo ở thời đại này không
như thời đại Lư-Trần, nhưng tinh thần Bồ tát đạo đă ăn sâu trong tầng lớp
quần chúng. Và nhờ tinh thần Bồ tát đạo ấy, mà bên ngoài đạo Phật in tuồng
như suy vi, nhưng kỳ thực đạo Phật vẫn hưng thịnh trong ḷng những ai có
tâm nguyện thực hành Bồ tát đạo.
Vào hậu bán thế kỷ XVII, Thiền sư Chân Nguyên xuất hiện, nỗ lực tu tập,
tham học với Thiền sư Minh Hương, Ngài đă thọ Bồ tát giới, đốt hai ngón
tay, thệ nguyện thực hành Bồ tát đạo, Ngài đă nỗ lực gây dựng lại những ǵ
đă bỏ quên đối với truyền thống Phật giáo Việt Nam trước đó.
Năm 1692, Vua Lê Hy Tông đă mời Ngài vào cung để tham vấn đạo Phật. Nhà
Vua đă phục tài đức của Ngài và tặng mỹ hiệu là Vô Thượng Công.
Năm 1722, Ngài được Vua Lê Dụ Tông quư trọng và hiến tặng danh hiệu Tăng
Thống.
Năm 1726, vào tiết tháng mười Ngài ngồi kiết già mà tịch, thọ 80 tuổi, Vua
quan đều kính nể, liền xây dựng hai tháp hiệu là Tịch Quang ở chùa Long
Đông và chùa Quỳnh Lâm để thờ Ngài.
Cùng thời với Ngài Chân Nguyên có Ngài Minh Châu-Hương Hải, sau những ngày
xuất gia tu học và hoằng pháp, năm 1683, Ngài Hương Hải đến giữ Phật pháp
ở Sơn Nam, làm cho Phật pháp không bị đứt đoạn.
Bấy giờ, ở Đàng Trong, Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) đă dựng xây nhiều
chùa chiền làm cơ sở tín ngưỡng cho quần chúng.
Năm 1601, Chúa cho trùng dựng chùa Thiên Mụ, sau đó Chúa làm lễ Vu Lan,
lập trai đàn và làm lễ bố thí tại đây.
Chúa cho dựng chùa Sùng Hóa trên nền chùa cổ ở xă Triêm An, huyện Phú
Vang.
Năm 1607, Chúa cho lập chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu, Quảng Nam.
Năm 1609, Chúa cho lập chùa Kính Thiên, ở Thuận Trạch, Quảng B́nh...
Trong thế kỷ XVII, ở Đàng Trong, đă có mặt các Tăng sĩ như:
- Ngài Viên Cảnh và Viên Khoan ở Quảng Trị.
- Ngài Minh Hoằng-Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tôn, tức chùa Từ Đàm-Huế ngày
nay.
- Ngài Giác Phong khai sơn chùa Thiên Thọ, tức chùa Báo Quốc-Huế ngày nay.
- Ngài Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm-Huế ngày nay.
- Ngài Hưng Liên, chùa Tam Thai-Quảng Nam.
- Ngài Pháp Hóa, chùa Thiên ấn -Quảng Ngăi.
- Ngài Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông- Phú Yên.
- Ngài Nguyên Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà ở B́nh Định, chùa Quốc
Ân và chùa Hà Trung ở Huế...
Nhờ có mặt của các vị cao Tăng, mà Phật giáo Đàng Trong ở thế kỷ XVII,
XVIII được trổi dậy và làm cho chánh pháp không bị mai một.
Lại nữa, các Chúa Nguyễn phần nhiều đều hâm mộ Phật pháp và muốn dùng Phật
pháp làm nền tảng tín ngưỡng cho nhân dân.
Vào năm 1695, Chúa Nguyễn Phúc Chu đă cho người đến tỉnh Quảng Đông để
thỉnh Ngài Thạch Liêm sang Thuận Hóa dạy đạo, Chúa đă thọ Bồ tát giới với
Ngài Thạch Liêm, có pháp danh là Hưng Long, đạo hiệu là Thiên Túng Đạo
Nhân.
Quốc mẫu, Công chúa và các anh em trong phủ Chúa đă phát tâm thọ Bồ tát
giới với Ngài Thạch Liêm cả.
Năm 1695, giới đàn được tổ chức tại chùa Thiền Lâm vào ngày mồng 8 đến
ngày 12 tháng 04. Trong giới đàn này có đến ba ngàn giới tử vừa là xuất
gia vừa là tại gia.
Giới tử xuất gia thọ Sa di và Tỷ khưu giới lên đến 1400 vị, Ngài Liễu Quán
đă thọ Sa di trong giới đàn này. Và ngày mồng chín tháng 04 là ngày trao
truyền Bồ tát giới cho các vị Tỷ khưu.
Có lần Ngài Thạch Liêm đă giảng hai chữ "trai giới" cho Chúa Nguyễn Phúc
Chu nghe như sau:
"Trai giới không phải là chỉ để cho sạch miệng, sạch ḿnh và sạch tư tưởng
thôi đâu. Vua mà thọ tŕ trai giới là làm cho quốc gia từ trên xuống dưới
đều được thanh lư chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không
một việc nào không giải quyết thỏa đáng. Làm được như vậy mới là sự hành
tŕ trai giới viên măn của một ông Vua".
Sau đó Chúa được Ngài Thạch Liêm đề nghị thực hiện trai giới bằng cách:
"Trả tự do cho những người bị giam cầm oan ức, phóng thích bớt những tù
nhân bị giam cầm trong ngục thất, chẩn cấp cho những kẻ đói nghèo, tháo gỡ
cho những kẻ bị đè nén ép uổng, băi bỏ bớt những điều lệ quá nghiêm khắc,
dễ dăi cho những người buôn thúng bán lưng và cho những thợ thuyền".
Ngài c̣n khuyên Chúa bỏ Luật "tượng h́nh", là bắt tội nhân phạm trọng giao
cho voi quật đến chết, những đề nghị này của Ngài Thạch Liêm đều được Chúa
nghe lời.
Nhờ vào sự giáo hóa của Tăng sĩ ở Đàng Trong vào thế kỷ này, cũng như nhờ
có đức tin đối với Phật pháp của các Chúa Nguyễn mà nhất là Chúa Nguyễn
Phúc Chu, nên đạo Phật Đàng Trong có những sắc thái hưng vượng.
Ngài Liễu Quán (1670-1742), ra đời từ Phú Yên, về đất Thuận Hóa tu tập,
thọ Sa di giới với Ngài Thạch Liêm tại giới đàn Thiền Lâm năm 1695, thọ Tỷ
khưu Bồ tát giới với Ngài Từ Lâm tại chùa Từ Lâm-Huế, tham vấn lư thiền
với Ngài Minh Hoằng-Tử Dung ở chùa Ấn Tôn, rồi chứng ngộ và hoằng pháp, mở
bốn giới đàn để làm bậc Ḥa thượng thí giới, nhờ vậy mà mạng mạch Phật
pháp được lưu chảy đến bây giờ trên đất thần kinh Huế.
Đạo hạnh của Ngài rất được Chúa Nguyễn Phúc Khoát quư trọng, thiền vị của
Ngài lại mang hương vị đậm đà sắc thái dân tộc, do đó mà đă được phát
triển mạnh mẽ trong những thế kỷ qua và hiện nay vẫn c̣n tiếp tục vậy.
Sau khi thống nhất sơn hà, các Vua nhà Nguyễn cũng có ḷng tín ngưỡng đạo
Phật.
Vào năm 1815, Vua Gia Long ra lệnh tu bổ lại chùa Thiên Mụ.
Năm 1826, Vua Minh Mạng sắc lệnh xây dựng lại chùa Thánh Duyên ở biển Tư
Hiền-Thừa Thiên Huế.
Năm 1830, Vua cấp chứng đạo độ điệp cho 53 vị cao Tăng cả nước để các Ngài
tự do hành đạo.
Năm 1844, phụng hành di chúc của Vua Minh Mạng. Vua Thiệu Trị xây dựng
tháp Từ Nhân, sau đổi là tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ và cũng năm này
Vua Thiệu Trị xây dựng lại chùa Diệu Đế.
Các bậc cao Tăng ở thời buổi này, như Ngài Mật Hoằng đang hành đạo tại Gia
Định, đạo phong rất nổi tiếng, Vua Gia Long triệu thỉnh về cung năm 1815
để làm trú tŕ chùa Quốc Ân và hoằng pháp tại đây.
Năm 1808, Ngài Phổ Tịnh ở Quảng Nam được bà Hoàng Thái Hậu rước về trú tŕ
chùa Thiên Thọ tức Báo Quốc ngày nay.
Thiền sư Thanh Đàm đạo hạnh rất nổi tiếng, lại thêm uyên bác Phật học, trú
tŕ thiền viện Nguyệt Quang, hoằng hóa Phật pháp ở Ninh B́nh và đă chú
giải nhiều kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa Đề Cương, Bát Nhă Trực Giải...
Thiền sư An Thiền trú tŕ chùa Đại Giác ở Bắc Ninh, tại đây Ngài đă hoằng
pháp và sáng tác nhiều tác phẩm như Phụng Chiếu Cầu Pháp, Bản Quốc Thiền
Môn Kinh, Đại Nam Thiền Học Sơ Khởi...
Thiền sư Nhất Định, trú tŕ chùa Thiên Thọ, sau đó trú tŕ Linh Hựu Quán
và chùa Giác Hoàng, Ngài rất được Vua Chúa và nhân dân kính nể, về sau ưa
yên tĩnh, nên Ngài đă từ bỏ các chức vị trú tŕ, t́m đến núi Dương Xuân
lập thảo am An Dưỡng, tức là chùa Từ Hiếu ngày nay.
Thiền sư Giác Ngộ, ở xă Đồng Xuân, huyện Phú Yên, Ngài xuất gia tu tập ở
núi Long Sơn, đạo hạnh của Ngài rất kỳ vĩ, Vua Minh Mạng rất ngưỡng mộ, đă
thỉnh Ngài về kinh đô trú tŕ chùa Giác Hoàng, sau đó Ngài đă xin rút lui
về núi ẩn tu.
Thiền sư Diệu Nghiêm, hiệu là Pháp Chuyên, trú tŕ chùa Từ Quang-Núi Đá
Trắng ở Phú Yên. Đạo hạnh của Ngài rất nghiêm mật, thông suốt kinh luận,
đă viết và chú giải nhiều tác phẩm như: Sự Nghĩa Luật Yếu Lược, Sự Nghĩa
Quy Nguyên, Kinh Báo Ân... Ngài đă viết một bài tựa ở sách Đại Học Hoằng
Giới, có đoạn nói về Đại thừa giới như sau:
"Sách Đại Học mới là đại pháp của chúng sanh có thiện căn phát Bồ đề tâm
xuất gia học Phật. Trong đó có phân ra Đại thừa, Tiểu thừa.
Đại thừa chính là do đức Phật Lô Xá Na, lúc mới thành tựu Vô Thượng Chánh
Giác dưới cây bồ đề, v́ các vị Bồ tát Đại thừa mà truyền tụng mười trọng
giới và bốn mươi tám giới khinh, nên giáo huấn và khiến họ hành tŕ tam tụ
tịnh giới".
Lại nữa, cũng trong bài tựa này, Ngài có nói: "Người xuất gia đầu tiên
phát Bồ đề tâm là muốn thành Phật, trước hết là cần phải khiêm hạ thân
tâm, để phá trừ tính kiêu mạn nhằm mong cầu gặp được vị Minh sư tŕ luật
để thiết tha thọ giới”.
Kinh dạy: "Chúng sanh thọ giới của Phật tức là đi vào địa vị của chư Phật,
địa vị đồng đẳng với Đấng Giác Ngộ mà Ngài đă tiếp tục trao truyền cho hết
thảy chúng sanh.
Do đó, đức Lục Tổ ở Tào Khê, theo thể Đại thừa đă được truyền tâm ấn của
Phật để kế thừa ngũ Tổ Hoằng Mai, thế mà sau đó Lục Tổ c̣n phải mong cầu
thọ giới.
Vậy, Giới há đâu phải là nhỏ? Nên Giới gọi là Đại Học..."
Qua bài tựa của sách Hoằng Giới Đại Học, chúng ta cũng đủ để biết, tinh
thần thọ và tŕ Bồ tát giới của Ngài Diệu Nghiêm lúc bấy giờ là như thế
nào?
Năm 1808, Ngài Viên Ngộ dựng chùa Lan Nhă và hành đạo tại làng Thanh Ba,
tỉnh Gia Định. Ngài thường phát nguyện thực hành theo hạnh của Bồ Tát Tŕ
Địa, chuyên chặt gai dọn đường để cho dân chúng qua lại.
Năm 1820, bệnh đậu mùa phát sinh trong vùng dân chúng bị lây nhiễm mắc
bệnh. Ngài nhịn ăn để tŕ chú, tụng kinh và cầu nguyện cho đến khi bệnh
hết hoành hành, dân chúng sống b́nh yên ngài mới ăn trở lại.
Năm 1846, Ngài tuyệt thực 49 ngày và viên tịch.
Vào những tháng năm đất nước bị Pháp thuộc, các Vua Thành Thái, Duy Tân...
bị nạn, nhân dân gặp nhiều tai ương, Phật giáo cũng cùng chung số phận.
Tuy nhiên, trong thời này cũng có nhiều bậc cao Tăng xuất hiện, như ở Huế
có Ngài Tuệ Pháp, mở trường dạy học ở chùa Thiên Hưng, Ngài Tâm Tịnh ở
chùa Từ Hiếu, Ngài Viên Giác ở chùa Ba La Mật, Ngài Viên Thành ở chùa Trà
Am..., ở B́nh Định có Ngài Phước Huệ, Ngài Phổ Tế..., ở chợ Lớn có Ngài Từ
Phong, ở Bến Tre có Thiền sư Khánh Ḥa, ở Châu Đốc có Ngài Chí Thành, ở
Trà Vinh có Ngài Huệ Quang, Ngài Khánh Anh, ở G̣ Vấp có Ngài Tâm Thông, ở
G̣ Công có Ngài Huệ Tịnh,…
Ở Bắc có Ngài Thanh Hanh, Thanh Tường, Thanh Ất, Doăn Hài, Quang Nghiễm...
chính các Ngài đă được nêu danh ở trên là những hạt nhân để chấn hưng Phật
giáo sau này.
Từ những hạt nhân ấy phát sinh ra các bậc cao Tăng ở Trung như: Ngài Giác
Nhiên, Giác Nguyên, Giác Tiên, Tịnh Khiết, Tịnh Hạnh, rồi đến các Ngài Đôn
Hậu, Phước Hộ, Trí Thủ, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Chánh Thống, Thiện
Trí, Trí Nghiêm, Trí Quang, Thiện Minh, Huyền Quang, Thiện Siêu, Thanh
Trí, Đức Tâm, Nhất Hạnh,...
Ở Nam phát sinh những vị cao Tăng như Ngài Trí Thiền, Hiển Thụy, Hành Trú,
Thiện Hoa, Thiện Ḥa, Trí Tịnh, Nhật Liên, Quảng Liên,...
Ở Bắc phát sinh những Ngài cao Tăng như Ngài Tuệ Tạng, Trí Hải, Tâm ứng,
Tâm Bảo, Tố Liên, Thanh Hoán, Thanh Hậu, Giải Ngạn, Tuệ Chiếu, Đức Nhuận,
Quảng Độ, Tâm Châu, Thanh Kiểm,...
Đối với những hàng cư sĩ tận tâm hộ đạo ở những thời điểm chấn hưng Phật
giáo thời này có nhiều vị ở Bắc như: Lệ Thần-Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ,
Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Văn Giáp, Nguyễn Năng Quốc, Thiều Chửu, Đỗ Nam Tử,
Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến,...
Ở miền Trung có cư sĩ Tâm Minh-Lê Đ́nh Thám, Ưng Bàng, Nguyễn Đ́nh Ḥa,
Nguyễn Khoa Tân, Viễn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ưng B́nh, Bửu Bác, Trần Đăng
Khoa, Lê Thanh Cảnh, Lê Thanh Khiết, Trương Xướng, Tôn Thất Tùng, Tôn Thất
Hàng,...
Ở miền Nam có các vị như: Phạm Ngọc Vĩnh, Huỳnh Văn Quyền, Trần Nguyên
Chấn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Phổ, Nguyễn Gia Cần, Nguyễn
Văn Khỏe, Chánh Trí-Mai Thọ Truyền,...
Tiếp nối ḍng máu chánh pháp của bao thế hệ đi trước, phong trào chấn hưng
Phật giáo tiền bán thế kỷ XX ra đời dưới sự lănh đạo của các Bậc cao Tăng
và sự tận t́nh hộ đạo của các hàng cư sĩ đương thời, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu
Phật Học ra đời năm 1931, do Ngài Khánh Ḥa đề xướng và Ngài Từ Phong làm
Chánh hội trưởng. Tiếp theo là Hội Lưỡng Xuyên Phật Học ra đời và có giấy
phép kư ngày 13/08/1934, do Ngài An Lạc chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho làm Chánh
hội trưởng.
Năm 1937, Hội Phật Học Kiêm Tế ra đời, đặt trụ sở tại chùa Tam Bảo ở Rạch
Giá do Ngài Trí Thiền làm Chánh tổng lư.
Năm 1932, Hội An Nam Phật Học ra đời, do Ngài Giác Tiên khởi xướng, và cư
sĩ Tâm Minh-Lê Đ́nh Thám làm Chánh hội trưởng đầu tiên.
Năm 1934, Bắc Kỳ Phật Giáo Hội thành lập, do Ngài Trí Hải, Tâm Ưng, Tâm
Bảo khởi xướng và bầu Nguyễn Năng Quốc làm Chánh hội trưởng đầu tiên.
Bấy giờ bên cạnh các Hội Phật Học c̣n có ba Giáo Hội Tăng Già
Trung-Nam-Bắc làm những Bậc Đạo Sư chứng minh và hướng dẫn sự tu tập và
hoằng pháp của các Hội.
Đến ngày 06/05/1951, các vị đại biểu của sáu tập đoàn Phật giáo
Trung-Nam-Bắc đă cùng nhau quần tụ về chùa Từ Đàm-Huế để hội nghị, đưa
Phật giáo Thống nhất ba miền với danh hiệu là Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
Trong Đại hội, bản tuyên ngôn được công bố, mang tinh thần Bồ tát giới,
thực hành Bồ tát đạo như sau:
"Bánh xe chánh pháp xoay vần trên khắp quốc độ Việt Nam đến nay đă gần 20
thế kỷ. Nhân tâm, phong tục, văn hóa, chính trị trong nước đều đă ảnh
hưởng sâu xa của Phật giáo. Tăng đồ và thiện tín từ Bắc vào Nam, một ḷng
quy ngưỡng Đức Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni, sống trong tinh thần Từ-Bi-Hỷ-Xả
và luôn lo toan xây dựng ḥa b́nh.
Nhưng sự đời không ḥa hợp với ḷng mong mỏi, hoàn cảnh trước đây, chia
ranh giới ba phần, nên Phật sự cũng phải tùy duyên, mặc dù Phật pháp là
bất biến, sự tướng mỗi phần mỗi khác, làm cho mắt bàng quan xem như có
phần chia rẽ.
Nay, cơ duyên thuận tiện, Phật Giáo Việt Nam phải được thống nhất. Hơn
nữa, họa chiến tranh đang gieo rắc khắp nơi, nhân loại đang lâm vào cảnh
lầm than phiền năo. Chính là lúc Đạo Từ Bi và Vô Thượng phải đem nước Cam
Lồ mà rưới tắt lửa sân si để xây dựng cảnh ḥa b́nh cho nhân loại".
Mặc dù, Phật giáo đă thống nhất với sáu tập đoàn vào năm 1951, nhưng không
phải v́ vậy, mà có sự êm xuôi để hoằng pháp, vẫn c̣n có những khả năng và
những mâu thuẫn nội tại đến ngoại tại, nên cũng năm 1951 này, Giáo Hội
Phật Giáo Tăng Già Toàn Quốc ra đời, suy cử Ngài Tuệ Tạng làm Thượng Thủ.
Đạo dụ số 10 của chính quyền bảo hộ soạn ra ép buộc Quốc trưởng Bảo Đại kư
năm 1950, đặt ra các tổ chức tôn giáo là một hiệp hội thông thường, ngoại
trừ tổ chức Thiên Chúa Giáo là vượt lên trên thể chế Hiệp Hội.
Mọi vận động đưa đến Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam vô cùng khó khăn, khó
khăn từ phía nội bộ, v́ có những Tăng sĩ tuy tu tập nhưng mang đầy ngă
tính và ngă sở, lại khó khăn bên ngoài là các thế lực chính trị lợi dụng
tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ đảng phái và cũng t́m cách phân hóa nội bộ
Phật giáo thành từng nhóm như Thuyền Lữ, Cổ Sơn Môn, Lục Ḥa Tăng,... để
thống trị.
Năm 1963, lệnh triệt hạ cờ Phật giáo của chính quyền Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm và đă bắn chết các Phật tử tại Đài Phát Thanh-Huế, và từ đó làm phát
khởi phong trào đấu tranh đ̣i hỏi b́nh đẳng tôn giáo và yêu cầu chính
quyền của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đáp ứng năm nguyện vọng của Phật giáo
đồ như sau:
1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt
hạ Giáo kỳ Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội
truyền giáo Thiên Chúa giáo đă được ghi trong Đạo dụ số 10.
3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt t́nh trạng bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật
giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng Ni Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ chết oan vô
tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng. (Theo sách Công cuộc
tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam, Đuốc Tuệ - Sài G̣n, 1964.)
Năm nguyện vọng Phật Giáo Việt Nam đ̣i hỏi, chính quyền của Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm không đáp ứng, lại c̣n đán áp Phật giáo một cách mănh liệt,
khiến xu thế thời đại phải dẫn đến cuộc cách mạng ngày 01/11/1963, chính
quyền của Tổng thống cai trị miền Nam cáo chung.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, sau bốn ngày đại hội kể từ
ngày 31/12/1963 đến ngày 04/01/1964, với một bản Hiến Chương bao gồm hai
Viện: Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo.
Viện Tăng Thống do Ngài Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết làm Tăng Thống, Viện
Hóa Đạo do Ngài Ḥa thượng Thích Tâm Châu làm Viện Trưởng, văn pḥng của
hai Viện đầu tiên đều đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang - Chợ Lớn - Sài G̣n.
Lời mở đầu của bản Hiến Chương có nội dung như sau:
"Công bố lư tưởng ḥa b́nh của giáo lư đức Phật, hai tông phái Phật giáo
(Bắc tông và Nam tông) tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thật
sự hoài băo từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc. Đó là lập trường thuần
nhất của GHPGVNTN.
GHPGVNTN không đặt sự tồn vong của ḿnh nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự
tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.
Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều
hợp, nghĩa là giáo lư, giáo luật và nếp sống của hai tông phái cũng như
hai giới Tăng sĩ và cư sĩ chẳng những được tôn trọng mà c̣n phải nỗ lực
phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo.
Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật Giáo Thống Nhất tại Việt Nam".
GHPGVNTN là kế thừa kết quả của một quá tŕnh tu tập và hành đạo, trên bản
nguyện thượng cầu, hạ hóa của lịch Đại Tổ Sư Việt Nam.
Nếu hàng Tăng sĩ và cư sĩ Phật giáo không có tâm nguyện tu tập và hoằng
pháp lợi sinh, dựa trên nền tảng Bồ đề tâm, th́ ngày nay không những không
có đạo Phật trên đất nước Việt Nam đă đành, mà nền văn hóa và tín ngưỡng
của dân tộc Việt Nam không biết sẽ như thế nào, nhưng chắc chắn rằng,
không như ngày nay, nghĩa là không có một niềm tự hào ǵ xứng đáng cho nền
văn hóa và tôn giáo dân tộc.
Mặc dù, lịch Đại Tổ Sư đă kế tục nhau truyền trao chánh pháp qua bao thời
đại thăng trầm của lịch sử và các vị cư sĩ đă có công tâm tận t́nh hộ đạo
không kể cả gian nguy, nếu không phát khởi đại nguyện, không kiên tâm tŕ
chí, không khéo vận dụng và ứng xử th́ ngày nay Phật giáo Việt Nam, có c̣n
chăng chỉ là một món đồ cổ để trang hoàng ở bảo tàng viện cho khách tham
quan.
Thế mới biết, trải qua bao sự thăng trầm, đạo Phật vẫn c̣n đó, vẫn hiển lộ
ra đó, với bất cứ ai có tâm nguyện rộng lớn, lấy Bồ đề tâm làm bản chất,
lấy Bồ tát giới làm bản nguyện hoằng pháp độ sinh, th́ dù ma quân có tàn
hoại Đạo Pháp đi nữa, nhưng Đạo Pháp vẫn sáng ngời, không hề bị tổn hại
một sợi lông.
Trái lại, người tu tập và hộ đạo mà không dựa trên Bồ đề tâm, thọ tŕ Bồ
tát giới, thực hành Bồ tát đạo, đă không như vậy mà lại c̣n mang đầy ngă
tính và ngă tướng, th́ dù cho Thiên thần có ủng hộ, th́ Đạo Pháp vẫn đắm
ch́m như mặt nhật rơi xuống rừng sâu.
Viết đến đây, ḷng tôi nghẹn ngào, xúc động vô cùng quư kính các bậc cao
Tăng và Phật tử quá khứ đă dày công xây dựng đạo, đời và vô cùng thương
tưởng đến thế hệ tương lai, đồng thời làm lời sách tấn cho chính bản thân
ḿnh đang hành đạo trong thời buổi hiện tại.
Nhân loại hiện tại và tương lai muốn sống trong tinh thần ḥa b́nh, cộng
tác và hiểu biết, th́ các nhà lănh đạo chính trị trên thế giới, không
những chỉ xem đạo Phật như là một phần tín ngưỡng trong cuộc sống của nhân
loại, mà phải hiểu biết thêm rằng, giềng mối cho sự ổn định thế giới, bảo
vệ công bằng lẽ phải cho xă hội, yêu mến loài người, loài vật và thiên
nhiên lại là những điều then chốt về Đức hành và Trí hành của Phật giáo,
mà tiêu biểu nhất là tinh thần thọ tŕ Bồ tát giới.
"Nếu một vị quốc chủ thọ tŕ Bồ tát giới, th́ chỉ cần một giọt mực nơi
ngọn bút của họ rơi xuống trên mảnh giấy, cũng đủ sức làm cho ngọn sóng
triều nhân ái trào dâng làm tươi nhuận cả sơn hà đại địa.
Giọt mực ấy, chẳng khác nào giọt nước cam lồ đầu cành dương liễu của Bồ
Tát Quán Thế Âm, rảy xuống trần gian làm cho vạn cây khô hồi sinh trở lại
thành sức sống của mùa xuân và chuyển hóa cơi uế độ trở thành tịnh độ".
Bất cứ lúc nào và ở đâu, có những vị thọ tŕ, thực hành Bồ tát giới, th́ ở
đó có đạo Phật thật sự, ở đó có tinh thần ḥa b́nh và an lạc, ở đó có tinh
thần vị tha, vô ngă, ở đó đang và sẽ có cơi Tịnh Độ vậy./.
(Ấn Độ)
(Trung Quốc)
T.T.H.
|