NHỮNG GIÁ TRỊ PHỔ QUÁT CỦA BỒ TÁT HẠNH THÍCH TUỆ SỸ
II. NHỮNG GIÁ TRỊ PHỔ QUÁT
Long Thọ nói,
giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lư, tương đối hay thế tục đế, và
tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lư
này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu. (Trung luận, k. xxiv.8-9.)
Cho nên, từ chỗ quy ước trong mối quan hệ giao tiếp thường nhật, trao đổi
của hai vị Đại sỹ mà phong cách ngôn ngữ có vẻ nghịch thường đối với hàng
trưởng giả bấy giờ dẫn vào thế giới mà ở đó những giá trị cũng nghịch
thường so với những ǵ được chúng ta nhận thức bằng các giác quan thường
nhật.
Quả thật, chúng ta vốn chỉ quen với những giá trị được nhận thức bởi mắt,
tai thường nghiệm. Vượt qua giới hạn đó, là thế giới huyễn hoặc, không
tưởng. Chúng ta giống như những con cá trong câu chuyện cổ, nghe những ǵ
con rùa kể sau chuyến du lịch dông dài trên đất liền, tất cả đều là bịa
đặt. Giới hạn ấy c̣n khắt khe hơn nữa, khi những ǵ người khác nhận thức
và tư duy khác với ta. Tất cả mọi nền văn minh đều cố nâng nhận thức cá
biệt của các thành viên của nó lên tầm cao hơn, phổ quát hơn, những giá
trị được chấp nhận bởi nhiều cá thể hơn. Một nhà thiên văn học Trung hoa
khi nh́n lên những ngôi sao gần nhau bên kia bờ sông Ngân; ông liên kết
chúng lại thành h́nh ảnh cô gái dệt lụa. Ông gọi đó là cḥm sao Chức nữ.
Ông có thể cười thầm, khi nghe một nhà Thiên văn Hy lạp, cũng nh́n cḥm
sao đó, gọi đó là một cây đàn Thất huyền. Cho nên, chúng ta không mong đợi
tấm ḷng bao dung quảng đại của một người mà suốt đời nhận thức không vượt
qua khỏi lũy tre làng. Người hành Bồ tát đạo v́ vậy thường được hướng dẫn chu du bằng trí tưởng
tượng qua nhiều thế giới hệ khác nhau; để thấy vô vàn sai biệt nhưng cũng
thấy tính b́nh đẳng qua vô vàn sai biệt ấy. Trong kinh Hoa nghiêm (Hoa nghiêm, bản 60, quyển 23, tr. 545b09; bản 80,
quyển 34, tr. 181c10. Cf. Daśabhūmika, tr. R. 15.) Bồ tát Kim Cang Tạng,
nương oai thần của Phật, thuyết minh mười địa của Bồ tát. Khi giới thiệu
địa thứ nhất, trong đó Bồ tát bắt đầu dự hàng Thánh giả, tự khẳng định
ḿnh là một thành viên trong gia tộc của Như lai, của tất cả Như lai chứ
không phải chỉ một Như lai. Để đạt được điều đó, trước hết, Bồ tát kia cần
phải thành tựu mười đại nguyện, mà mỗi nguyện đều hướng đến tất cả Như
lai, tất cả chúng sinh, tất cả đại dương thế giới, quảng đại như hư không.
Tất cả chúng sinh, hoặc hữu h́nh hoặc vô h́nh, hoặc có tưởng hoặc không có
tưởng, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, vô lượng vô biên sai biệt. Tất cả
mọi h́nh thái thế giới: họăc thế giới cực kỳ nhỏ bé, hoặc cực kỳ to lớn,
hoặc đứng thẳng, hoặc đứng nghiêng, hoặc lộn ngược, hoặc bằng phẳng, hoặc
tṛn, hoặc vuông, trùng trùng như trong mạng lưới của Đế Thích. Tất nhiên,
lớn hay bé, thẳng hay nghiêng, hay lộn ngược, hay bằng phẳng, đều so với
vị trí đứng của chúng sinh trong thế giới hệ này. Nguyện của Bồ tát chỉ có
thể lớn, tâm tư chỉ có thể bao dung, nếu vị ấy biết rằng từ vị trí đứng
thẳng của ḿnh mà ở nơi kia, trong thế giới phương trên hay phương dưới,
tồn tại các chúng sinh đang di chuyển với trạng thái chúc đầu xuống; biết
vậy mà vẫn không cho là nghịch thường, là điên đảo. Từ đó mới có thể chấp
nhận những giá trị cá biệt ở đó cũng b́nh đẳng như ở đây; hết thảy b́nh
đẳng như hư không.
Cho nên, khi Duy-ma-cật thị hiện thần thông du hư, khiến cho đại chúng từ
nơi phương trượng của ḿnh trông thấy thế giới Chúng hương, mà các vật
liệu xây dựng đều là hương. Và rồi, một hóa thân Bồ tát lại vượt qua vô số
thế giới để đến đó; nếu khi nh́n hoạt cảnh ấy mà các đại chúng ở đây thảy
đều ngạc nhiên, thấy điều chưa từng thấy, khó tin, khó biết, khó chấp nhận
đó là hiện thực, điều cũng là tự nhiên. Rồi trong thế giới kia, khi hóa Bồ tát xuất hiện; các đại chúng ở đó cũng
kinh ngạc, thấy điều chưa từng thấy: ở đâu, thế giới nào, lại tồn tại sinh
vật tí hon, bé như một vi sinh vật so với thân thể cực đại ở đây? Tuy bé
nhỏ như thế, nhưng sao lại có thần thông quảng đại như thế, vượt qua bao
nhiêu thế giới hệ để đến đây, điều mà Bồ tát cực đại thân ở đây không ai
làm được? Sau khi biết được có thế giới như vậy, các Bồ tát này muốn được
hướng dẫn đến đó. Trước khi các Bồ tát ấy lên đường, đức Phật Hương Đài
của thế giới Chúng hương giáo giới họ: Hăy thu lại mùi hương, hăy thu nhỏ
thân thể, và cẩn thận chớ sinh tâm khinh mạn. Đó có thể là bài học khởi
đầu cho việc giao lưu văn hóa liên vũ trụ cho các Bồ tát. Nhưng thời đại
chúng vẫn c̣n khó tin tồn tại những thế giới khác trong đó có sinh vật
thông minh như ở trong trái đất này. Vậy, hăy gác qua không gian vũ trụ vô
cùng tận ấy, mà xem đó chỉ là mô tả h́nh tượng, để hướng dẫn mở rộng tầm
nhận thức vốn chật hẹp của chúng ta v́ chỉ biết cái ǵ là tồn tại và chân
lư, nếu cái đó phù hợp với quy luật nhận thức của ta. Điều mà chúng ta có thể học được từ họat cảnh thị hiện thần thông của
Duy-ma-cật, là hăy tưởng tượng một sứ đoàn truyền giáo, đi đến một địa
phương xa lạ, trong đó sắc dân được đánh giá là xấu xí hơn, v́ màu da
không trắng trẻo, thân không cao lớn; tư duy cũng thấp kém hơn, v́ không
tín ngưỡng tồn tại đâu đó một đấng Chí tôn nhân từ nhưng đôi khi cũng hung
bạo nếu loài người chống lại ư định của Người bất kể ư muốn ấy là thế nào,
nghịch lư hay thuận lư đối với nhận thức người thường. Trong cách đánh giá
ấy, cái ǵ sẽ xảy ra? Những cuộc tàn sát không thương tiếc, do bên này hay
bên kia. Chấp nhận những giá trị dị biệt trong những nền văn hóa dị biệt,
đó là điều kiện cơ bản cho một thế gới ḥa b́nh. Đó là bài học lịch sử
viết bằng máu của nhân loại. Thế th́, điều cần thiết với một vị Bồ tát, sau khi đă đi vào cánh cửa bất
nhị, bấy giờ điều cần làm là làm sao để mở rộng tâm tư b́nh đẳng đến mọi
chúng sinh trong vô vàn thế giới sai biệt? Cho nên, Phật Hương Tích sau
khi căn dặn các Bố tát những điều cần làm để đến tiếp xúc với thế giới Ta
bà, Ngài kết luận: “Bởi v́ mười phương quốc độ đều như hư không.” Hư không
vốn quảng đại, vô hạn, b́nh đẳng; tâm tư của Bồ tát cũng vậy, quảng đại,
vô lượng, b́nh đẳng. Bằng tâm tư đó mà đi trên Thánh đạo. Trong thế giới bên kia, bài học cho các Bồ tát lên đường đi vào thế gới vô
tận là vậy. Bên này, Duy-ma-cật cũng khuyến giáo đại chúng: “Đừng ăn cơm
này với ư hữu hạn; v́ như vậy sẽ khó tiêu.” Ông lại nói thêm: “Đừng lấy
đức trí nhỏ mà đo lường phước huệ vô lượng của Như lai. Nước của bốn đại
dương c̣n có thể khô cạn, chứ cơm này vô tận… Tại sao? V́ đó là thức ăn
c̣n dư của người đă thành tựu công đức của vô tận giới, định, huệ, giải
thoát, và giải thoát tri kiến.” Vượt qua định kiến h́nh thành từ nhận thức thường nghiệm, giới hạn của các
quan năng, để tiến tới những giá trị tâm linh phổ quát; đó là thuận tự
trong quá tŕnh tu dưỡng để khai phóng tâm tư. Cho nên, tiếp theo sau đó,
Duy-ma-cật hỏi các Bồ tát từ nước Chúng hương về sự thuyết pháp và tu tập
trong thế giới đó. Các Bồ tát này thuyết minh: “Như lai ở quốc độ chúng
tôi không thuyết pháp bằng ngôn ngữ, mà chỉ dùng các hương thơm khiến cho
tất cả trời và người có thể thâm nhập luật hành. Mỗi Bồ tát ngồi dưới
những cội cây hương, cảm nhận mùi hương vi diệu của cây mà chứng nhập
tam-muội Nhất thiết công đức tạng. Ai chứng được tam-muội này tất đầy đủ
các phẩm chất mà Bồ tát có.”
Sự nghe pháp, và sự tu tập như vậy quả thật đơn giản. So với thế giới của
chúng ta, có quá nhiều điều cần phải học, quá nhiều điều cần phải làm. Như
thuyết minh của Duy-ma-cật cho các Bồ tát từ cơi Chúng hương: “Chúng sinh
trong cơi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật giảng thuyết bằng ngôn
ngữ cứng rắn để điều phục. Ngài nói: Đây là địa ngục. Đây là súc sinh…Đây
là tà hành của thân; đây là quả báo của tà hành của thân…cho đến…Đây là
hữu lậu, đây là vô lậu. Đây là chính đạo, đây là tà đạo. Đây là hữu vi,
đây là vô vi. Đây là thế gian, đây là niết-bàn…” Do cách ăn và những ǵ được dùng làm thức ăn; do biểu hiện ngôn ngữ mà
những ǵ cần học, nhiều điều cần tu không giống nhau; từ đó h́nh thành
những giá trị cá biệt. Nhưng không v́ vậy mà có sự phân biệt hơn kém.
Không phải cao đẹp hơn, hay cao thượng hơn, v́ nhỏ bé mà xinh xắn dễ
thương, hay to lớn mà thô kệch; không phải hay v́ lời nói khắc khổ, dài
ḍng, hay nhẹ nhàng mà ngắn gọn. Mọi giá trị sai biệt đều b́nh đẳng. Từ đó
phát hiện, qua những giá trị sai biệt, tồn tại những giá trị phổ quát giữa
các thế giới hệ khác nhau. Cho nên, nghe xong, các Bồ tát từ cơi Chúng
hương đều cất tiếng ca ngợi: “Thật chưa từng nghe. Đức Thế tôn Thích-ca
Nâu-ni Phật đă ẩn đi vô lượng khả năng tự tại, hóa độ chúng sinh bằng pháp
mà người nghèo ưa thích. Các Bồ tát ở đây cũng nhẫn nại những khó nhọc,
bằng vô lượng đại bi mà sinh nơi cơi Phật này.” Thật vậy, các vị này thoạt tiên nhận xét chúng sinh ở cơi Ta-bà thuộc loại
“nghèo khó nhưng ương ngạnh.” Sau đó tỏ ra hối hận v́ nhận xét này, khi
được nghe Phật Thích-ca thuyết pháp. Họ nói: “Bạch Thế tôn, lúc mới nh́n
thấy thế giới này chúng con có ư tưởng nó thấp kém, bây giờ hối hận, chẳng
c̣n ư đó nữa. V́ sao? V́ các phương tiện diệu dụng của chư Phật thật là
bất khả tư nghị.” Phát biểu này mang ư nghĩa xác nhận giá trị phổ quát. Giá trị phổ quát đó
là tính b́nh đẳng giữa tất cả mọi quốc độ trong tất cả mười phương thế
giới. Như Phật đă nói với A-nan: “Hết thảy Chư Phật đều b́nh đẳng về h́nh
sắc, uy quang, vẻ đẹp, tướng hảo, chủng tộc, giới, định, huệ, giải thoát,
giải thoát tri kiến…” Tính b́nh đẳng được ví dụ như hư không. Hư không ở đây không phải là
khoảng không gian trống không giữa các vật thể hữu h́nh mà mắt thường có
thể phân biệt hoặc sáng hoặc tối. Tính b́nh đẳng của hư không không có
nghĩa là xóa hết tất cả dấu vết sai biệt để c̣n lại một thực tại trống
không. Tất cả vẫn tồn tại ở đó; khi mọi vật sinh xuất hiện, hư không không
tăng; khi các thứ biến mất, hư không không giảm. Không sinh, không diệt,
không tăng, không giảm, là những yếu tính để có thể nhận biết hư không.
Để đạt đến tính b́nh đẳng như hư không đó, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đă
thuyết minh cho các Bồ tát Chúng hương về môn giải thoát của Bồ tát gọi là
“Tận Bất tận.” (Skt. ksayāksayo nāma bodhisattvānām vimoksah.) Tận, tức
kiệt tận, xóa sạch hết mọi thứ cho đến khi tất cả không c̣n ǵ.
Thế nào là tận? Các pháp hữu vi đều có xu hướng suy hao, tàn hoại, kiệt
tận. Hoặc tuổi thọ cạn hết, hoặc phước đức cạn hết, như có hạng chư thiên
kia, do sự kiệt tận ấy mà chết nơi đó để tái sinh nơi đây. Hoặc Tỳ-kheo
kia tu tập cho đến khi dứt sạch hết các lậu hoặc ô nhiễm, vị ấy trở thành
vô lậu, tâm giải thoát, huệ giải thoát, ngay trong đời này bằng thắng trí,
tự thân chứng ngộ và an trú (Định cú Pali, nói về Tỳ kheo đắc A-la-hán:
idha, bhikkhave, bhikkhu āsavānam khayā anāsavam cetovimuttim
paññāvimuttim dittheva dhamme sayam abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharati.) Nói tóm lại, để đạt đến Niết-bàn giới vô vi, Tỳ kheo cần phải
làm cạn kiệt tất cả khát ái, ly dục. Pháp như vậy được nói tối thượng
trong tất cả các pháp hữu vi và vô vi. (Cf. A. ii. 34: yāvatā, bhikkhave,
dhammā sankhatā vā asankhatā vā, virāgo tesam aggamakkhāyati, yadidam …
tanhākkhayo virāgo nirodho nibbānam. ) Nghĩa quy ước của tận và vô tận là
như vậy. Theo nghĩa đó, Khi Duy-ma-cật được Văn-thù hỏi, “Bồ tát nên nh́n đời như
thế nào”; đáp: Bồ tát nh́n đời như nhà ảo thuật nh́n vật ảo hay người ảo
mà ḿnh tạo ra. (Phẩm vii “Quán chúng sinh.”) Thanh văn hay Bồ tát đều
khởi đi từ một thế giới quy ước như vậy. Bởi thế gian này chỉ là tuồng
huyễn hóa, không thực, nên Bồ tát đi t́m một cái ǵ đó chân thực không hư
dối. Khởi điểm như vậy là chối từ thế giới đang tồn tại trước mắt. Như
người đi t́m lơi cây, bóc dần các lớp vỏ ngoài, cho đến khi t́m t́m thấy
cái ǵ là lơi cây chắc thực.
Đó là cái nh́n lạnh lùng về thế giới, nhân sinh. Bởi v́, mọi pháp trong
thế giới Ta-bà này, có vị ngọt của sắc th́ đồng thời cũng có tai họa của
sắc. Cho nên, đức Phật dạy: Biết thân này như bọt nước, các pháp, như
quáng nắng, như ảo ảnh; ai hiểu rơ điều đó, thoát khỏi cảnh giới của Tử
thần. (Dhp. 46.) Trên giường bịnh, Duy-ma-cật cũng giảng giải cho khách
đến thăm bịnh chân lư như vậy về nhân sinh: “Thân này như đống bọt, không
thể vốc nắm. Thân này như bong bóng nước, không tồn tại lâu dài. Thân này
như quáng nắng bốc từ khát vọng yêu thương. Thân này như cây chuối, ruột
không lơi chắc. Thân này như huyễn, h́nh thành bởi ư nghĩ điên đảo...”
Dù vậy, thân này đang tồn tại, và cần được nuôi dưỡng để tồn tại. Nó được
nuôi dưỡng bởi bốn loại thực phẩm, mà chính yếu ở đây là đoạn thực, thực
phẩm vật chất. Thực tế là, lọai thực phẩm ấy sau khi được hấp thu nó bài
tiết ra những thứ ghê tởm. Cho nên Phật thí dụ, người thâu nạp đoạn thực,
như kẻ lữ hành qua hoang mạc phải ăn thịt đứa con duy nhất thân yêu để
sống. Sau khi ăn thịt con, nó vừa đi vừa kêu khóc: “Con tôi đâu? Con tôi
đâu?” (Tạp A-hàm 15, kinh 373, tr. 102b18. Pāli, Puttamamsa, S.ii.98.)
Nhưng trong thế giới Chúng hương, lọai thực phẩm được hóa thân Duy-ma-cật
mang về cho đại chúng, không để lại hậu quả đáng tởm như vậy. Mà thực phẩm
ấy, tuy cũng là loại đoạn thực, dù được ăn bởi kẻ phàm phu, vẫn lưu lại
mùi hương vi diệu, không đáng nhàm tởm. Đoạn thực ở đó được nhận thức như
là phương tiện thuyết pháp của Phật. Giữa hai thế giới, giá trị của cùng loại thực vật không giống nhau. Vậy
th́, trong mỗi thế giới riêng biệt, các pháp tồn tại với giá trị riêng
biệt, đặc thù của chúng. Để vượt lên những giá trị quy ước này, Duy-ma-cật
khuyến cáo đại chúng không nên ăn cơm từ cơi Chúng hương bằng ư hữu hạn,
bằng tâm ư bị ràng buộc trong giới hạn phương vực. Vượt lên giới hạn cá
biệt của thế giới là để tiến lên nhận chân giá trị phổ quát, nhận thức
tính b́nh đẳng của tất cả.
Nền tảng để đạt đến giá trị phổ quát, tính b́nh đẳng ấy là ǵ? Đức Phật
Thích-ca nói với các Bồ tát từ cơi Chúng hương: “Bồ tát không kiệt tận hữu
vi, không an trú vô vi. Thế nào là không kiệt tận hữu vi? Không rời đại
từ, không xả đại bi, sâu sắc phát tâm cầu Nhất thiết trí không quên lăng;
giáo hóa chúng sinh không hề biết mệt mỏi…” Cũng như trong đời sống thường nhật, ta đến với một người bằng tất cả tấm
ḷng yêu thương chân thật, th́ cá tính dù thế nào cũng không là bức tường
ngăn cách giữa ta và người. Ở đây cũng vậy, bằng tâm đại bi, Bồ tát đến
với thế gian không phải để cào bằng mọi giá trị của thế gian; nhưng để tự
ḿnh thấy và chỉ cho mọi người thấy đâu là giá trị chân thực. Như vậy cho
nên Bồ tát không giữ chặt cái thấy của ḿnh để cưỡng đặt lên những người
khác. Chúng sinh trong thế giới Chúng hương có thân thể cao lớn, đồ sộ,
luôn luôn toát ra mùi hương vi diệu. Chúng sinh trong thế giới Ta-bà này
thân h́nh bé xíu, lại thường tiết ra mùi hôi hám. Nhưng chân lư của cái
đẹp không thuộc về thế giới kia hay thế giới này. Không san bằng hết mọi
dị biệt của hữu vi để đạt đến cái vô vi b́nh đẳng. Như vậy Bồ tát không
tận hữu vi, không trụ vô vi.
Từ thế giới Chúng hương xa xôi kia, mà mọi thứ được làm bằng hương kia,
đến nới Ta-bà ô trược này, để học môn giải thoát Tận-Vô tận, để rồi trở về
quốc độ kia với tâm tư như hư không, v́ Phật tính vốn b́nh đẳng như không
trong tất cả mọi loài, mọi quốc độ, với sự tôn kính vô cùng đối với đức
Phật ở đây, đồng cảm vô hạn với các Bồ tát thị hiện trong thế giới này, và
yêu thương không cùng tận hết thảy chúng sinh ch́m ngập trong cơi Tà-bà
đầy thống khổ nhưng cũng cực kỳ ương ngạnh này.
Không tận hữu vi, Bồ tát chấp nhận sự tồn tại của dị biệt giữa các loại
chúng sinh mà kiến thiết quốc độ thanh tịnh. Không trụ vô vi, Bồ tát nhận
thức tính b́nh đẳng như hư không trong tất cả các loại chúng sinh, nên mọi
giá trị cá biệt đều được kính trọng như là giá trị phổ quát. Không tận hữu
vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh không bằng hận thù tranh chấp.
Không trụ vô vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh bằng t́nh yêu và
sự kính trọng giữa các loại chúng sinh. (phần I)
(phần III)
T.S.
(trích đăng từ Tập San Nghiên Cứu Phật Học số 14)
|