TRIẾT HỌC THẾ THÂN
Tái Khảo Sát Về Sự Tri Nhận
Lê Mạnh Thát
(V́ giới hạn của fonts, một số âm từ trong ngữ Sankry ở phần phụ chú
(...) đă không tŕnh đúng dạng theo nguyên tác, kính xin Chư Tôn và Độc
Giả hoan hỉ khoan dung)
(II)
Như vậy, cùng với tŕnh bày vừa dẫn, phản ứng trên phát
biểu rơ ràng một đối tượng của tri nhận phải được định nghĩa như thế nào.
Nó phải được định nghĩa bằng nơi chốn, thời gian, tính phổ quát và tác
dụng. Đây là bốn tiêu chuẩn để xét một đối tượng có thật sự là một đối
tượng hay không.
Một đối tượng là cái mà nó được tri nhận ở một nơi nào đó vào một lúc nào
đó, điều mà mọi người t́nh cờ có mặt ở nơi đó vào lúc đó đều thừa nhận, và
nó có khả năng gây ra một tác dụng nào đó. V́ vậy, nếu bất kỳ vật ǵ đáp
ứng được các tiêu chuẩn này phải được thừa nhận là một đối tượng của tri
nhận. Nay nếu ta xét các tiêu chuẩn này th́ chúng đều không có khiếm
khuyết nào cả. Tôi đă nh́n thấy pho tượng Đại Phật ở Đông Đại Tự khi tôi
t́nh cờ có mặt ở đó vào một chuyến du lịch chứ không phải ở nơi nào khác.
Và tôi đă t́nh cờ đi chuyến đó vào một ngày mùa đông, v́ thế tôi đă thấy
nó vào ngày đông đó chứ không phải mọi lúc cũng không phải vào các thời
điểm khác. Vào ngày đó đă t́nh cờ có nhiều người đi hành hương ở đó và mọi
người đă nh́n thấy nó như tôi nh́n thấy, và tôi không phải là người duy
nhất nh́n thấy nó. Và pho tượng, tôi đă thấy, đă thật sự tạo ra một âm
thanh êm dịu cho mọi người nghe thấy, khi tôi gơ nhẹ vào nó. Như vậy, pho
tượng Đại Phật ở Todaji đúng là một đối tượng thật của tri nhận, mà không
phải là một bức tượng hiện ra trong giấc mơ hay trí tưởng tượng của tôi.
Kết quả, ta phải thừa nhận rằng bốn tiêu chuẩn phán xét một đối tượng ở
trên, tức nơi chốn, thời gian, tính phổ quát và tác dụng, không phi lư
chút nào cả. Thật vậy, chúng hoàn toàn thỏa đáng ở phạm vi rất rộng, như
chúng ta đă thấy thí dụ được cho. Luận đề “nhận thức không thuộc về đối
tượng”, v́ thế, bị kẹt trong t́nh huống phiền toái và cần phải giải quyết.
Sau khi đă nói rơ làm thế nào để định nghĩa một đối tượng của tri nhận,
Nhị Thập Tụng tiếp tục đưa ra lư do tại sao tri nhận không thuộc về một
đối tượng, như vừa được định nghĩa. Hăy nhớ rằng đối tượng được định nghĩa
qua nơi chốn, thời gian, tính phổ quát và tác dụng của nó. Nhị Thập Tụng
sẵn sàng chỉ ra nếu một đối tượng của tri nhận có thật có thể được định
nghĩa như thế, th́ đối tượng của một tri nhận không thật như tri nhận tôi
có trong giấc mơ về một đối tượng nào đó cũng thế.
Chẳng hạn, tôi đă nh́n thấy một cô gái xinh đẹp và gợi cảm trong giấc mơ
của tôi vào một tối mát trời mùa hè vừa rồi. Cô gái đẹp và gợi cảm đặc
biệt mà tôi nh́n thấy đó t́nh cờ ngồi cùng tôi trong pḥng tôi, xem một
chuyện phim buồn trên truyền h́nh. V́ thế, tôi nh́n thấy cố ấy chỉ trong
căn pḥng đó mà không phải nơi nào khác. Việc chúng tôi ngồi xem truyền
h́nh với nhau t́nh cờ xảy ra chỉ vào buổi tối mát trời đặc biệt đó mà
không phải mọi lúc. Và việc chúng tôi ngồi với nhau vào tối đó cuối cùng
đă dẫn đến sự cấu trược trong đêm tối của tôi, đồng thời cũng làm đứt đoạn
giấc mơ đẹp và gợi cảm với sự tiếc nuối về phần tôi. Như vậy, cô gái trong
mơ đó thực sự có tác động với một kết quả cụ thể, tức sự cấu trược không
thể chối căi của chính tôi. Cuối cùng, khi tôi mô tả cô ta cho bạn tôi,
anh ta đă đồng ư là cô ta thật sự đẹp và gợi cảm. Cô gái tôi thấy trong
mơ, v́ thế thật sự có tính phổ quát, như đă được định nghĩa. Vậy th́ rơ
ràng đối tượng của một tri nhận không thật cũng có mọi đặc tính của một
đối tượng của tri nhận thật. Như vậy, những tiêu chuẩn được thiết lập để
phán đoán, và qua đó ngầm ư phân biệt, đối tượng của một tri nhận thật và
đối tượng của một tri nhận không thật là một thất bại hoàn toàn. Một khi
chúng đă thất bại th́ việc nói rằng tri nhận thuộc về một đối tượng cũng
sẽ giống với việc nói ngược lại, một điều đă được chỉ ra rất hiển nhiên.
Nay khi đă chứng minh được rằng người ta không thể dựa vào bốn tiêu chuẩn
đó để xác định đối tượng của tri nhận th́ điều bắt buộc là phải t́m ra các
chọn lựa khác để xem có thể định nghĩa nó như thế nào.
Nhị Thập Tụng đề nghị xét vấn đề từ quan điểm cấu trúc nguyên tử của chính
đối tượng. Dĩ nhiên, điều này chẳng có ǵ mới v́ một quan điểm như thế đă
được diễn đạt và thử đến trong Câu Xá Luận. Trong đó, Thế Thân cho ta biết
theo Tỳ Bà Sa thực thể vật lư có thể được phân tích thành các nguyên tử và
các vi trần, bao gồm mười bốn loại sau: các nguyên tử của đất, của lửa,
của nước, của gió, của màu, của thanh, của mùi, của vị, của xúc chạm,
nguyên tử mắt, nguyên tử tai, nguyên tử mũi, nguyên tử lưỡi, và nguyên tử
thân, trong đó năm cái cuối được phân biệt trước tiên như là tác dụng của
một hệ sinh vật có ư thức như ở con người (Vimśatikā ad 3.) Trong mười bốn
loại này, Tỳ Bà Sa chủ trương có ít nhất tám loại phải kết hợp với nhau để
tạo thành một phân tử cho khả năng tri nhận thật sự về một đối tượng vật
lư, và chúng là các nguyên tử của đất, lửa, nước, gió, màu, mùi, vị và xúc
chạm. Nếu phân tử có tính chất thuộc về thính giác th́ một nguyên tử thứ
chín, tức nguyên tử của thanh, phải được thêm vào số tám nguyên tử tối
thiểu nói trên. Tương tự, các phân tử của các giác quan khác phải có các
nguyên tử của riêng chúng, ngoài chín nguyên tử kể trên. Như vậy mỗi giác
quan bao gồm ít nhất mười nguyên tử. (Abhidharmakośa II ad 22, LVP
pp.144-149.) Nhưng nếu nhiều sự kết hợp khác nhau của các nguyên tử để tạo
thành một phân tử cho khả năng tri nhận thật sự về một thực thể, th́ chúng
sẽ như thế nào trong những kết hợp này? Cái ǵ duy tŕ chúng để chúng khỏi
tách rời nhau?
Thật khó trả lời những câu hỏi này cho hợp lư, nhất là khi các nguyên tử
được định nghĩa là không thể phân chia và không có thành phần. Nếu không
có thành phần, chắc chắn chúng không thể chạm nhau, và v́ thế không thể có
trong bất kỳ kết tụ nào. Tỳ Bà Sa trả lời rằng đúng là “nếu các nguyên tử
chạm nhau ở bất kỳ một điểm nào đó th́ chúng phải có thành phần; nhưng
theo định nghĩa th́ chúng lại không có thành phần... Tuy nhiên, nếu chúng
không chạm nhau và phân tử không vỡ ra khi bị nghiền nát, th́ đó là v́ môi
trường của gió (phong giới) kết tụ và giữ chúng lại với nhau. Có một loại
gió có tác dụng giống như một lực phân tán như vào thời kỳ hoại thế và một
loại gió giống như lực kết tụ ở thời kỳ sáng thế.” (Abhidharmakośa I ad
12, LVP pp.21-23.) Tỳ Bà Sa định nghĩa thêm phong giới là một trường của
lực (force-field). Đối với họ, mặc dù nguyên tử được định nghĩa là không
thể phân chia và không có thành phần nhưng chúng vẫn có thể kết tụ để tạo
thành một phân tử cho khả năng tri nhận thật sự một đối tượng vật lư.
Những ǵ các nguyên tử làm là xúc chạm nhau trong tổng thể của chúng, có
nghĩa chúng vẫn là các nguyên tử riêng rẽ nhưng trộn lẫn với nhau trong
một môi trường được cho (Abhidharmakośa I ad 20a-b, LVP pp.38-39.) V́ vậy,
nếu ta có thể tri nhận một đối tượng trong một h́nh dáng nào đó của một
màu nào đó, điều này hoàn toàn do “việc tự sắp xết của các nguyên tử theo
cách nào đó”, (Abhidharmakośa IV ad 3c, LVP pp. 10-12.) và có thể được
giải thích qua các sắp xếp này. Như vậy, các giải pháp cho vấn đề cấu tạo
nguyên tử được t́m thấy trong thuyết về trường của lực, và các giải pháp
cho vấn đề cấu trúc phân tử nằm ở thuyết về sự sắp xếp các nguyên tử.
Trong cả hai trường hợp, phải thừa nhận rằng các giải pháp được Tỳ Bà Sa
đề nghị không chỉ phức tạp mà c̣n rất thú vị, nhất là xét đến khoảng cách
giữa thời đại của họ với thời đại chúng ta. Bởi v́ họ làm chúng ta nhớ
ngay đến thuyết kết hợp hóa học ngày nay, một thuyết đă đóng góp rất nhiều
cho việc thuyết minh nhiều sự kiện thuộc về nguyên tử và phân tử cho đến
nay vẫn không được giải thích và không thể hiểu. Thí dụ, Tỳ Bà Sa chủ
trương rằng nếu nước bốc hơi th́ đó là do sự có mặt của tính chất hủy diệt
ở trong bản chất của nó, trong trường hợp này đó là sự cân bằng của trường
lực giữ nó lại với nhau. Do một thâm nhập nào đó của năng lượng từ các
nguồn bên ngoài như lửa hoặc mặt trời đă dẫn đến sự bốc hơi của nước
(Abhidharmakośa IV ad 3b, LVP pp.7-8.) Tuy nhiên, lư thuyết phức tạp này
của Tỳ Bà Sa về cấu trúc nguyên tử phải chịu một cú đấm chí tử từ quan
điểm triết học của họ vốn cho rằng chỉ có nguyên tử là thực trong khi phần
c̣n lại của những ǵ được chúng cấu thành chỉ là những mô tả. Quan điểm
này của họ đă được chúng ta bàn đến ở Chương III. Từ sự bàn luận trong
chương đó, chúng ta đă biết rằng đối với họ cái thực không thể bị nghiền
nát hay phân tích theo bất cứ cách nào, dù h́nh dạng hay thể cách.
(Abhidharmakośa I ad 20a-b, LVP pp.37-39.) Theo định nghĩa, các nguyên tử
đáp ứng một điều kiện như thế cho nên chúng thực sự tồn tại. Chúng không
phải là những ǵ cấu thành chúng bởi v́ một cấu thành như thế chắc chắn bị
nghiền nát như một cái b́nh hay bị phân tích bởi tâm thành các nguyên tố
tối hậu như nước. V́ thế, những cái này không thực sự tồn tại mà chỉ là
một quy ước, có nghĩa là người ta đồng ư cái b́nh có tồn tại, tồn tại như
thế, và chẳng có ǵ khác nữa. Một tồn tại như thế không có thực thể nào
cả. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự quy ước trong một cộng đồng nào đó về
việc gắn cho nó một nhăn hiệu ‘tồn tại’. Từ sự phân biệt như thế về cái
thực và không thực, điều tất yếu xảy ra là chỉ có các nguyên tử mới có thể
và phải được xem là đối tượng của tri nhận, bởi v́ chỉ có chúng là có
thực, tức các vật thực sự tồn tại trong thế giới vật lư. Phần c̣n lại
trong thế giới đó đều do chúng cấu thành, và v́ thế có thể bị nghiền nát
hoặc tách rời thành các nguyên tố tối hậu; v́ vậy, chúng nhất định không
phải là đối tượng của tri nhận, v́ lư do đơn giản là những ǵ không thực
sự tồn tại không thể được tri nhận thực sự.
Cần phải lưu ư thêm là mặc dù ngày nay chúng ta không thể nói chắc có phải
thuyết trên về cấu trúc nguyên tử đă được Tỳ Bà Sa phát triển để đáp ứng
thuyết về cái ǵ là thực hay không, thế nhưng chúng ta vẫn có thể chắc
chắn rằng một thuyết về cái có thực như thế, vốn kéo theo nó ư nghĩa về
các lănh vực khác như sự tri nhận, thật sự đă đặt ra những vấn đề nghiêm
trọng cho thuyết tri nhận của họ, một thuyết đă được giảng giải tiếp theo
đó.
Thật vậy, chính v́ thuyết về cái ǵ là thực của họ mà Tỳ Bà Sa đă cố giải
thích làm thế nào để tri nhận cái thực đó. Thí dụ, Tỳ Bà Sa ở Kaśmīra chủ
trương ta có thể tri nhận chính các nguyên tử trong điều kiện nguyên
tử-phân tử của chúng, tức các nguyên tử trong kết tụ tối thiểu của chúng
gồm tám nguyên tử hay nhiều hơn (Abhidharmakośa I ad 43d, LVP pp.88-90.)
Lúc đó, cái ta tri nhận là các vật thật, tức các nguyên tử, chứ không phải
cái nhăn ‘tồn tại’ được gán ghép bởi quy ước như trường hợp của phân tử
hay cái b́nh, v.v. Hiển nhiên, đây là một quan niệm rất dễ tin. Trong Câu
Xá Luận, Thế Thân đă có những nghi ngờ trầm trọng về điều này. Chẳng hạn,
về vấn đề các nguyên tử có xúc chạm nhau hay không khi tạo thành một phân
tử, ông chỉ ra rằng nếu chúng vẫn c̣n riêng rẽ và được một năng lượng giữ
lại ở một điểm nào đó, tức chúng vẫn có khoảng cách nào đó giữa chúng cho
dù khoảng cách đó có nhỏ bé và hết sức vi tế như thế nào đi nữa, th́ “cái
ǵ ngăn không cho các nguyên tử này di chuyển trong khoảng không do khoảng
cách giữa chúng tạo ra?” Khái niệm về chuyển động của nguyên tử do Thế
Thân phát biểu lại nghe có vẻ hiện đại đến lạ lùng. Thế nhưng nó được đưa
ra như một công cụ để bẻ găy quan niệm của Tỳ Bà Sa cho rằng người ta có
thể nh́n thấy cả các nguyên tử. Bởi v́ nếu các nguyên tử di chuyển quanh
trong đường giao thoa ngăn cách chúng th́ bất cứ ai cũng khó có thể tri
nhận bất cứ vật ǵ trong ṿng xoáy của nguyên tử chuyển động. Thật không
dễ dàng theo dấu cho dù chỉ tám nguyên tử của một phân tử nhỏ nhất, tức
đơn vị vốn có thể được tri nhận thật sự, để có thể phân biệt một nguyên tử
mới được đưa vào với các nguyên tử cũ.
Ngoài ra, Thế Thân c̣n lưu ư rằng tại sao người ta lại phủ nhận là các
nguyên tử không chạm nhau, nếu phân tử thật sự không khác các nguyên tử
tạo thành nó và chúng thật sự chạm nhau trong t́nh trạng lập thành phân
tử. “V́ thế, thật phi lư khi một mặt th́ phủ nhận việc các nguyên tử chạm
nhau và mặt khác lại thừa nhận chúng có chạm nhau khi ở trong một kết hợp
phân tử.” Và cuối cùng, ông nhận xét rằng vấn đề các nguyên tử có chạm
nhau hay không trong một phân tử thuộc về sự phân chia không gian. V́ vậy,
“nếu các ông thừa nhận nguyên tử có sự phân chia về không gian th́ chúng
chắc chắn có thành phần, cái mà chúng có thể hoặc không thể chạm đến; đàng
khác, nếu các ông phủ nhận điều đó, th́ sẽ không có chút lư do nào giải
thích tại sao các nguyên tử có thành phần, cho dù chúng có xúc chạm nhau”
(Vimśatikā pp.7-8.) Qua nhận xét trên, rơ ràng Thế Thân không bằng ḷng
chút nào với lư thuyết tiêu chuẩn về cái ǵ là thực được Tỳ Bà Sa đề ra.
Thật vậy, cho dù chúng ta chấp nhận thuyết của họ về cấu trúc nguyên tử
th́ một điều vẫn không rơ ràng là làm thế nào các nguyên tử trong một phân
tử có số lượng tối thiểu lại có thể được tri nhận mà không phải ngược lại.
Vấn đề này càng rắc rối hơn khi được nh́n từ quan điểm “phân tử th́ không
khác ǵ các nguyên tử tạo thành nó”. Có nghĩa là, nếu các nguyên tử là các
vật thật th́ tại sao phân tử, vốn được tạo thành bởi các vật thật, tức các
nguyên tử, lại không thật? Thế nhưng, đáng chú ư nhất là quan niệm của Tỳ
Bà Sa cho rằng các nguyên tử xúc chạm nhau trong một cấu trúc phân tử mà
không phải nơi nào khác. Thật không đúng khi nói rằng chúng xúc chạm nhau
trong những điều kiện nào đó mà không phải trong những điều kiện khác,
giống như Thế Thân đă nói “vấn đề chỉ là chúng có chạm nhau hay không chạm
nhau” ( Sylvain Lévi, Matériaux pour l’étude du système vijñaptimātra,
Paris: H. Champion, 1932: 52-55; và Frauwallner, Die Philosophie des
Buddhismus, Berlin: Akademie-Verlag, 1956: 374-377; Ui, Shiyaku taisho
Yuishiki nijuron kenkyu, Tokyo: Iwanami shoin, 1953. Bản dịch của Hamilton
từ bản Hán đă quá lỗi thời nên không đáng được nhắc đến ở đây.) trong khi
xúc chạm nhau lại là đặc tính có sẵn của chúng. Như vậy, những khó khăn
dường như không thể giải quyết đă được mang lại cho thuyết cấu trúc nguyên
tử của Tỳ Bà Sa bởi chính những suy luận triết học của họ về cái có thực
và cái có thể được tri nhận. Ta không thể không cảm thấy rằng đây là những
khó khăn lớn lao và hoàn toàn không thể giải quyết khi xét từ những suy
luận của họ. Như vậy, thuyết về đối tượng của tri nhận bị bẻ găy bởi ba
nhận xét có phê phán trên của Thế Thân, mặc dù những quan niệm có sức thu
hút rộng của chúng về cấu trúc nguyên tử và phân tử liên quan đến đối
tượng đó. Tuy nhiên, những nhận xét này, đúng như ư nghĩa của nó, không
được đưa ra để chính thức bác bỏ hay chủ trương một lư thuyết dù cho chúng
có mang tính phê phán hay không. V́ thế, về việc điểm lại lư thuyết sâu
sắc của Tỳ Bà Sa về đối tượng tri nhận, ta phải đợi đến khi Thế Thân viết
Nhị Thập Tụng, trong đó có thể ông đă thực hiện một khảo sát đầy đủ về
thuyết này. Luận thư này viết:
Các nguyên tử này, khi chúng nằm trong cấu trúc phân tử, hoàn toàn không
phải là đối tượng của tri nhận, v́ nguyên tử, mỗi cái là một vật riêng rẽ,
th́ không được chứng thực. Tại sao nó không được chứng thực? V́:
Nếu các nguyên tử kết nối với nhau vào cùng thời điểm với một số lượng là
sáu, th́ chúng có sáu phần/12a-b/
Nếu các nguyên tử, tất cả là sáu, kết nối với nhau từ sáu hướng khác nhau,
th́ điều tất yếu là chúng có sáu phần, mỗi cái đều có chỗ riêng của nó nơi
mà cái khác không thể chiếm cứ.
Nếu cả sáu cái cùng chiếm cứ một chỗ, th́ khối lượng của chúng sẽ là khối
lượng của chỉ một nguyên tử/12c-d/
Tức là, nếu chỗ của một trong số chúng cũng là chỗ của cả sáu, th́ do tất
cả chúng đều có cùng một chỗ, khối lượng của chúng sẽ là khối lượng của
chỉ một nguyên tử, và do chúng không khác nhau, khối lượng của chúng cũng
sẽ không được nh́n thấy.
Tỳ Bà Sa ở Kaśmīra chắc chắn sẽ đáp lại điều đó, các nguyên tử không nối
kết với nhau, v́ theo định nghĩa, chúng không có thành phần; và chắc chắn
chúng tôi không phạm một sai lầm ngu ngốc như thế; tuy nhiên, chúng kết
nối nhau trong cấu trúc phân tử. Thế nhưng, lúc đó phân tử của các nguyên
tử là một vật thể khác với chính các nguyên tử?
Nếu các nguyên tử không kết nối nhau, th́ cái ǵ kết nối chúng trong
trường hợp của cấu trúc phân tử?/13a-b/
Hoặc v́ các nguyên tử không có thành phần cho nên không có sự kết nối của
chúng với nhau. [Trong cả hai trường hợp, nguyên tử, mỗi cái đều là vật
riêng rẽ] th́ không được chứng thực/13c-d/
Tức là, nếu các phân tử không kết nối chúng với nhau, th́ chắc chắn ta
không nên nói rằng do chúng không có thành phần nên chúng không được chứng
thực là kết nối với nhau. Thật vậy, chứng cứ của các ông cho thấy rằng
phân tử kết nối với nhau do nó có thành phần. V́ vậy, nguyên tử như là một
vật riêng rẽ th́ không được chứng thực. V́ thế, ta phải thừa nhận rằng các
nguyên tử hoặc kết nối với nhau, hoặc không. [Trong trường hợp trước].
(phần I) (phần
III)
dịch Việt: Đạo Sinh
(trích đăng từ Tập San Nghiên Cứu Phật Học số 14)
|