(tiếp theo
số trước)
(III)
Hốt nhiên một niệm.
Nói về phân biệt, ngôn ngữ, và chân như, trong Luận Đại thừa khởi tín,
HT. Thích Trí Quang dịch giải, có đoạn: “Hết thảy các pháp (pháp ở đây có
thể đổi ra khái niệm, như Đại sư Thái Hư và học giả Lương Khải Siêu đă
nói) chỉ do phân biệt (phân biệt, chính văn là vọng niệm hay niệm, ngài
Huyền Tráng dịch là phân biệt, và có thể thay bằng chữ khái niệm) mà có
sai biệt, tách rời phân biệt thời đối tượng cũng không có. Do vậy mà biết
các pháp xưa nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất
quán, không hề chuyển biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể đồng nhất
nên mệnh danh chân như. Mọi ngôn ngữ đều không thực chất, chỉ tùy phân
biệt chứ không có ǵ có thể thủ đắc. Gọi là chân như th́ cũng không phải
là một đối tượng (nghĩa là, không phải đối tượng hóa chân như mà phân
biệt), mà là ngôn ngữ tột đỉnh (HT. Thích Thiện Hoa dùng chữ túng cùng
thay chữ tột đỉnh), do ngôn ngữ ấy mà hủy bỏ ngôn ngữ. Nhưng chân như th́
phi hủy bỏ, v́ các pháp toàn là chân, lại phi xây dựng, v́ các pháp toàn
là như. Phải hiểu các pháp phi diễn tả, phi phân biệt, đó là chân như.”
Chân như, mặt bất biến (phi sinh diệt) của Tâm, phân tích theo ngôn ngữ
thời có hai mặt. Một là thật không (như thật không), không mọi sự ô nhiễm:
không mọi phân biệt và phạm trù phân biệt. Hai là thật có (như thật bất
không), có mọi sự trong sáng: có đầy đủ các pháp thanh tịnh. Cũng nên biết
hệ Bát nhă là chân như và nghĩa không của chân như, hệ Hoa nghiêm và Pháp
hoa là nghĩa có của chân như.
Sinh diệt là mặt chuyển biến của Tâm. Chuyển biến (sinh diệt) là, ở
chúng sinh, Như Lai tạng chuyển danh a lại da thức: chủ thức làm căn bản y
của các pháp, đủ hết thể tướng dụng của cái Tâm đại thừa. Thức a lại da có
hai mặt, giác và bất giác, bao gồm và phát sinh tất cả các pháp. Giác là
tuệ giác chính xác. Bất giác là tuệ giác sai lầm, hay không phải tuệ giác
tức vô minh. Thêm nữa, c̣n có bản giác và thỉ giác của giác. Bản giác là
tuệ giác vốn có hay tuệ giác căn bản. Thỉ giác là tuệ giác mới có, hay tuệ
giác phản giác. Như vậy giác là giác ngộ tâm thể siêu việt phân biệt. Nói
cách khác, giác là chính tâm thể ấy. Bất giác là chính phân biệt, là giác
mà không giác tâm thể, giác mà giác sai. “Tâm thể siêu việt phân biệt nên
gọi là bất biến. Không thấu triệt tâm thể ấy mà hốt nhiên nổi lên phân
biệt thời gọi là bất giác.”
Vô minh bất giác làm cho tâm vọng động tạo nghiệp. Tâm động nên sinh
năng phân biệt. V́ có tâm năng phân biệt nên cảnh giới giả dối sáu trần
hiện ra. Như vậy phân biệt lập thành những tướng năng tri và sở tri, từ đó
phát sinh các pháp hữu vi, có sinh, có diệt, then chốt tạo ra thế giới,
chúng sinh, và nghiệp quả. Nhưng chính nơi pháp tạp nhiễm lưu chuyển đó,
nếu phát ngộ Chân tánh của tâm thể, thể nghiệm phản tỉnh vọng tâm, thời
nhân (vô minh) diệt, do đó duyên (cảnh giới) diệt. Sở y nhân diệt và sở
duyên diệt thời lưu chú triển chuyển hoàn tịnh, nhân duyên trở lại bản tâm
thanh tịnh, quá tŕnh mê vọng xoay chiều trở thành quá tŕnh ngộ chân.
Phép tính chỉ trỏ.
Xin tŕnh bày sau đây một phép diễn toán rất đặc biệt gọi là phép tính chỉ
trỏ (The calculus of indication) mô tả sự phát khởi một thế giới căn cứ
chỉ trên một tác động phân biệt nguyên thủy. Tác động phân biệt nguyên
thủy này giống như một niệm vô minh hốt nhiên sinh khởi nói trong Đại thừa
khởi tín luận. Trước hết, tưởng cần giới thiệu tập sách toán học rất ngắn
gọn, không sử dụng số, Laws of Form (Luật H́nh trạng), trong đó G.
Spencer-Brown thuyết minh phép tính chỉ trỏ. Trang mở đầu gây nhiều ngạc
nhiên thích thú với độc nhất câu chữ Hán in chữ lớn theo hàng dọc: “Vô
danh thiên địa chi thỉ” (Vô danh là bắt đầu của trời đất). Câu này trích
ra từ thiên đầu của Đạo đức kinh: Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả
danh phi thường danh. Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi
mẫu. Spencer-Brown cho biết trong lời nói đầu, “Chủ đề sách này là một vũ
trụ hiện thành khi một không gian bị cắt đoạn hay bị phân khai” (The theme
of this book is that a universe come into being when a space is severed or
taken apart). Luật H́nh trạng ra mắt vào năm 1969 đề nghị một phép toán
giải đáp câu hỏi, ‘làm thế nào ‘có’ xuất khởi từ ‘không’ vào bất cứ lúc
nào?’ (How some-thing ever emerges from no-thing?)
Trong thập niên 50, Spencer-Brown rời chức vụ giảng dạy toán và luận lư
học ở Đại học Cambridge và Oxford đến làm việc tại một hăng kỹ thuật
chuyên về mạng lưới các mạch điện tử, kể cả các mạch cơ sở của hệ thống
đường rầy Anh quốc. Mạng lưới gồm những dăy nối tiếp các khả năng rẽ
nhánh, trái hay phải, ngă này hay ngă kia. Tại mỗi nút đường, cần phải tác
động chọn lựa một trong số nhiều khả năng. Trên phương diện toán học, một
chọn lựa giữa nhiều nhánh có thể rút gọn về một dăy chọn lựa chỉ giữa hai
khả năng mà thôi. Như vậy, công việc thiết kế mạng lưới các mạch điện tử
gặp phải những vấn đề chọn lựa giống như trong việc thành lập những kết
hợp phức tạp các mệnh đề logic, mỗi mệnh đề có khả năng là đúng hay sai.
Bởi thế hăng kỹ thuật đặt kỳ vọng nơi nhà luận lư học Spencer-Brown mong
rằng ông sẽ giúp họ thiết kế những mạng lưới hoàn hảo hơn.
Thoạt đầu Spencer-Brown t́m cách áp dụng ngành toán đại số Boole
(Boolean algebra). Boole (1815-1864) là nhà toán học và giáo dục học người
Anh đă thực hiện một cuộc cách mạng thay đổi chủ trương của toán học, từ
quan điểm toán học là khoa học về số hay độ lớn chuyển qua quan điểm toán
học là khoa học thao tác các kư hiệu, không cần biết các kư hiệu này có
thể biểu tượng các số hay không. Quan điểm mới mẻ của ông được tŕnh bày
dưới dạng một hệ thống toán học h́nh thức trong tập sách tựa đề Laws of
Thought (Luật Tư duy) xuất bản vào năm 1854. Ông tin rằng hệ thống toán
học h́nh thức của ông có khả năng diễn tả cơ học hiện hành trong tâm thức
con người: “Luận thuyết sau đây được thi thiết nhằm nghiên cứu những định
luật cơ bản về những tác dụng của tâm thức do đó các quá tŕnh luận chứng
được thực hiện và nhằm phát biểu những định luật ấy bằng kư hiệu ngôn ngữ
của một Phép tính, rồi căn cứ trên cơ sở đó mà thiết lập khoa Logic với
những phương pháp liên hệ.”
Nhưng không may cho Spencer-Brown, đại số Boole là đại số duy nhất không
có một số học (arithmetic). Số học khác đại số ở điểm số học thao tác trên
hằng số (constant) tỉ như các số nguyên 1, 2, 3, ... , c̣n đại số thời
thao tác trên biến số (variable), tức những kư hiệu X, Y, hay Z biểu tượng
những hằng số không biết. Trong trường hợp đại số thiếu số học bên dưới
thời không thể dùng số học để giải những bài toán đại số phức tạp. Nhằm
giải đáp những bài toán liên quan các mạch điện tử Spencer-Brown ở trong
t́nh thế phải t́m cách kiến tạo một số học làm nền tảng cho đại số Boole.
Cuối cùng ông khám phá một hệ thống kư hiệu toán học ưu mỹ cực kỳ đơn
giản, h́nh thành một phép tính mới, đặt tên là Phép tính chỉ trỏ (The
calculus of indication), tŕnh bày rất ngắn gọn trong tập sách Laws of
Form (Luật H́nh trạng). Bertrand Russell phê b́nh: “Trong tập sách này ông
G. Spencer-Brown đă thành tựu một công tŕnh thật rất hiếm có. Ông đă phát
hiện một phép tính mới đầy năng lực và rất đơn giản. Tôi chúc tụng ông
ấy.” (In this book Mr. Spencer-Brown has succeeded in doing what is very
rare indeed. He has revealed a new calculus of great power and simplicity.
I congratulate him.)
Hệ thống toán ông khai triển trong Luật H́nh trạng hoàn toàn trừu
tượng. Bởi thế có thể áp dụng không những để diễn tả cấu trúc vũ trụ bằng
kư hiệu mà c̣n để dựng lập những h́nh trạng và trật tự của tư duy trên một
bối cảnh vô sai biệt. Nguồn gốc phát xuất các luật H́nh trạng là một tác
động phân biệt căn bản. Về tác động căn bản này, Varela nhận xét:
“Spencer-Brown xem mô tả như tựa trên một tác động nguyên thủy (a
primitive act), thay v́ trên một trị logic hay h́nh trạng, và cái tác động
nguyên thủy ấy xem như một tác động có thể thực hiện, tối đơn giản nhưng
không thể tránh được. Như thế, nói chung, đây là một nỗ lực không phân hai
chủ thể và đối tượng nhằm đặt nền móng cho toán học và mô tả. Từ trực quan
căn bản đó, ông dựng lập một biểu tượng minh xác và một phép tính về phân
biệt.”
Sự phát sinh h́nh trạng bắt đầu với một tờ giấy trắng. Tưởng tượng đó là
một không gian trống, một hư không. Dùng bút vẽ một cái dấu hay vạch một
đường. Đó là tác động phân biệt đầu, có thể xem như tác dụng sáng tạo ban
đầu, vẽ ra một phân biệt trong hư không. Từ phân biệt đầu ấy xuất khởi cả
một thế giới của lưỡng nguyên và tương phản, dẫn đến sự phát sinh h́nh
trạng và thời gian.
Trong hư không không thể có khu biệt, lên hay xuống, trong hay ngoài,
trên hay dưới, gần hay xa, bởi v́ hư không hoàn toàn đối xứng, trống vắng
mọi thông tin. Nếu không có một quan sát viên vẽ ra phân biệt và xác định
phương hướng, thời mọi điểm của hư không vô sai biệt. Nhưng một khi chấp
nhận sự có mặt của một quan sát viên hoạt động hay một tác dụng nhận thức
sáng tạo trong hư không ấy thời sự vẽ ra phân biệt đầu trở nên có thể thực
hiện, kết quả là làm hiện khởi những lưỡng nguyên và tương phản.
Quá tŕnh lưu xuất từ Không được diễn tả như sau. Tác động đầu tiên của
quan sát viên là vạch một cái dấu. H́nh trạng của dấu này có thể là một
ṿng tṛn vẽ trên một tờ giấy trắng vô hạn. Ṿng tṛn định giới nhị phân
đầu tiên, v́ nó chia mặt phẳng thành hai phần, trong và ngoài. Do phân
biệt đầu tiên này mà một chuyển động có thể bắt đầu. Không có phân biệt
đầu ấy thời chuyển động và tịnh chỉ không sai khác v́ mọi điểm trong không
gian tương đương nhau và không cách nào phân biệt sự đổi từ điểm này sang
điểm khác với sự đứng yên tại một điểm. Vậy phân biệt đầu chấp nhận chuyển
động khởi diễn và từ chuyển động ấy lưu chú một vũ trụ logic bao hàm cơ sở
của toán học, ngôn ngữ học, vật lư học và sinh học, và ngay cả sự phát
sinh thời gian.
Bây giờ thử t́m hiểu phép tính chỉ trỏ h́nh thành bằng kư hiệu như thế
nào. Trước hết chấp nhận có khái niệm phân biệt. Dùng kư hiệu N làm tên
gọi chỉ phía này của phân biệt (ngoài, chẳng hạn), và kư hiệu T làm tên
gọi chỉ phía đối lập kia của phân biệt (trong). Dùng kư hiệu <S> làm tên
gọi chỉ sự vượt quá từ phía S qua phía đối lập của S. Như vậy, vượt quá từ
trong ra ngoài viết là: <Trong> = Ngoài, và vượt quá từ ngoài vào trong
viết là: <Ngoài> = Trong. Hay viết tắt: (1) <T> = N và (2) <N> = T.
Thật ra, không cần kư hiệu T, v́ có thể dùng trạng thái không dấu vạch
(trống) để chỉ phía của T. Như thế, sự vượt quá từ trong ra ngoài được mô
tả bởi phương tŕnh (1’) < > = N (bên trong dấu ‘< >’ là trống), và sự
vượt quá từ ngoài vào trong sẽ là
(2’) <N> = . (Vế thứ hai trống)
Phương tŕnh (1’) < > = N cho thấy có thể đồng nhất dấu ‘< >’ và kư hiệu
N, nghĩa là dùng dấu ‘< >’ thay N, N là tên gọi chỉ phía trạng thái có dấu
vạch. Gọi trạng thái chỉ bởi dấu ‘< >’ bên trong trống là trạng thái có
dấu vạch.
Phương tŕnh (1) <T> = N trở thành: (1”) < > = < >, và
phương tŕnh (2) <N> = T trở thành: (2”) << >> = (Vế thứ hai trống).
Như vậy, sự vượt quá có hai trị: trạng thái có dấu vạch ‘< >’ và trạng
thái không dấu vạch ‘ ’ (trống). Do đó phương tŕnh (1”) < > = < > đọc là
“Trị của sự vượt quá từ trạng thái không dấu vạch (v́ trống bên trong dấu
‘< >’ ở vế đầu của phương tŕnh) là trạng thái có dấu vạch (trực tiếp chỉ
bởi dấu ‘< >’ ở vế sau của phương tŕnh)”. Phương tŕnh này vô vị. Chỉ giữ
lại phương tŕnh (2”) << >> = (Vế thứ hai trống), đọc là “Trị của sự
vượt quá từ trạng thái có dấu vạch là trạng thái không dấu vạch.”
Hăy lưu ư dấu ‘< >’ có ư nghĩa giống như của toán tử logic BẤT (NOT; Chẳng
phải). BẤT trong là ngoài (<T> = N); BẤT ngoài là trong (<N> = T); BẤT BẤT
ngoài là ngoài (<<N>> = <T> = N); BẤT BẤT trong là trong (<<T>> = <N> =
T). Vậy BẤT X có thể viết là <X>; và BẤT BẤT X viết là <<X>> (= X).
Ngoài ra, dấu ‘< >’ có hai công dụng, vừa là danh từ, vừa là động từ; danh
từ v́ là tên gọi của trạng thái có dấu vạch, động từ v́ là sự vượt quá từ
trạng thái không dấu vạch. Sự vượt quá từ trạng thái không dấu vạch trỏ
vào trạng thái có dấu vạch. Danh xưng (tên gọi) và tác động (vượt quá)
quan hệ xoay ṿng trùng hợp trên dấu ‘< >’. Danh xưng chẳng qua là tác
động vượt quá từ sự không có danh xưng. Như vậy dấu ‘< >’ không phân biệt
với tác động phân biệt nguyên thủy. Hăy xem dấu ‘< >’ là sự trỏ vào tác
động phân biệt nguyên thủy, khu biệt hai trạng thái, có dấu vạch và không
dấu vạch. Nó chính là tên gọi của tác động phân biệt nguyên thủy. Do đó,
dấu ‘< >’ là tên gọi chính nó. Ta t́m thấy được một dấu tự đặt tên.
Bây giờ hai dấu < > < > sắp kề nhau có thể hiểu là dấu này đặt tên dấu
kia, nhưng v́ dấu tự đặt tên nên hai dấu hóa thành một. Ta có thêm phương
tŕnh (3) < > < > = < >, đọc là: “Tác động phân biệt thêm tên gọi là
chính tác động phân biệt.” Tên gọi là vật có tên gọi đó.
Cuối cùng, ta có hai phương tŕnh căn bản của phép tính chỉ trỏ:
(A) < >< > = < >
(B) < < > > = (Vế thứ hai trống)
Tóm lại, thế giới và sự mô tả thế giới quan hệ xoay ṿng. Quan sát viên là
dấu ‘< >’. Tác động phân biệt luôn luôn là kinh nghiệm phân biệt của một
người nào đó. Vậy những hệ thống duy nhất tồn tại là những hệ thống vận
hành như quan sát viên. Một hệ thống nhận thức là một hệ thống siêu việt
những biên giới giữa hiện trạng, kinh nghiệm, và những mô h́nh của kinh
nghiệm.
Cần lưu ư tác động phân biệt chỉ bởi dấu ‘< >’ không những khu biệt không
gian một chiều thành hai trạng thái trong và ngoài mà c̣n khu biệt trạng
thái ‘ngoài’ thành hai phần, phần bên trái và phần bên phải của dấu. Như
thế có tất cả ba không gian và hai phân biệt lồng nhau. Đây chính là
trường hợp tác động phân biệt chữ in khi đọc hay viết bài hay phân biệt kư
hiệu toán học. Do đó mới phân biệt được AB và BA khác nhau, v́ trong
trường hợp đầu A ở bên trái của B, và trường hợp sau, A ở bên phải của B.
Tác động phân biệt mà Spencer-Brown đề cập trong phép tính chỉ trỏ
không nằm trong không gian một chiều mà nằm trong mặt phẳng, không gian
hai chiều. Vẽ ra phân biệt với các ṿng tṛn trong mặt phẳng thời mỗi ṿng
tṛn chỉ phân biệt trong và ngoài chứ không phân biệt giữa bên trái và bên
phải. Như vậy đơn giản hơn nhiều.
Theo Spencer-Brown, một vũ trụ hiện thành khi có một tác động phân biệt và
một không gian bị phân khai. Khi một phép chỉ trỏ được thực hiện bằng bất
cứ dấu hiệu nào, thời phép chỉ trỏ tự động tạo ra một sự phân biệt giữa
hai trạng thái, có dấu vạch và không dấu vạch. Không gian bị phân khai
cùng với cả hai trạng thái, có dấu vạch và không dấu vạch, tạo thành cái
mà ông gọi là “h́nh trạng của phân biệt” (the form of the distinction).
Varela phát biểu sự kết hợp phân biệt và chỉ trỏ như sau: “Một phân biệt
chẻ đôi thế giới thành phần này và phần kia, hay thành môi trường và hệ
thống, ta và người, v..v... Một trong những tác động căn bản nhất của con
người là tác động phân biệt. Nhưng không có trị giá đồng bạn thời một phân
biệt không thể tồn tại. Do đó, phân biệt trở thành một phép chỉ trỏ, nghĩa
là, một chỉ trỏ là một phân biệt trị giá.”
Spencer-Brown dùng duy nhất một dấu, dấu , để gọi tên trạng thái có dấu
vạch hay để trỏ vào sự vượt quá từ trạng thái không dấu vạch. Trạng thái
không dấu vạch được chỉ bởi không gian trống. Ông khai triển phép tính chỉ
trỏ căn cứ trên hai tiên đề:
(1) = (2) = ,
tương ứng với hai phương tŕnh căn bản (A) và (B) nói trong phần trên.
Tiên đề (1) đọc là: Trị của một gọi tên gọi tên thêm lần nữa là trị của
gọi tên.
Tiên đề (2) đọc là: Trị của một vượt quá vượt quá thêm lần nữa không
phải là trị của vượt quá.
Nếu dùng hai chữ m và n để chỉ hai trạng thái tương phản, chữ m chỉ có dấu
vạch, , và chữ n chỉ không dấu vạch, , thời ta có:
= n hay và
= m hay ,
nghĩa là, “Trị của sự vượt quá từ trạng thái này là trạng thái tương
phản kia.”
Dùng hai tiên đề (1) và (2) làm qui tắc diễn toán trên các kết hợp dấu ,
thời dầu kết hợp phức tạp đến đâu, kết quả vẫn chỉ là một trong hai trị:
trạng thái có dấu vạch ( ), hay trạng thái không dấu vạch (trống). Như vậy
hai tiên đề tạo thành một tập hợp qui tắc số học rất đơn giản nhưng đầy
đủ. Quả thật là một số học kỳ dị, trong đó các trị hằng, so với những hằng
số như 1, 2, 3, ... trong số học thông thường, gồm vỏn vẹn hai trị, có dấu
vạch và không dấu vạch.
Spencer-Brown quảng diễn số học ấy thành một đại số bằng cách đem vào
những biến số, nghĩa là những chữ cái (alphabetic characters; tự mẫu) biểu
tượng các tổ hợp dấu. Các định lư và biểu thức logic có thể suy ra từ
những tổ hợp các dấu , , … Ngoài ra, có thể suy diễn những phép thay thế
và trừ khử dùng thiết lập những biểu thức gia tăng phức độ hay ngược lại,
rút gọn và giản lược những biểu thức phức tạp
V́ mục tiêu của ông là khai triển một số học làm nền tảng cho đại số
Boole, cho nên đại số ông quảng diễn tương đương với đại số Boole. Nhưng
theo ông, đại số quảng diễn có tầm ứng dụng rộng lớn hơn. Chẳng hạn, những
dạng thức logic suy ra từ tác động phân biệt đầu và hai tiên đề (1) và (2)
phản ảnh cấu trúc của tư duy, hay mô tả những quá tŕnh vận hành bên trong
các mạch điện tử hay hệ thống sinh học.
Luật H́nh trạng là một sự khảo sát xem những ǵ xảy đến khi có một tác
động phân biệt, khi thức biến. Theo trên, ta thấy một không gian xuất khởi
từ duy nhất một tác động phân biệt. C̣n thời gian thời sao? Khi giải những
bài toán vạch đường tàu chạy trên các mạch và áp dụng như thường lệ những
qui tắc của phép tính chỉ trỏ, thời một sự kỳ lạ xảy đến. Spencer-Brown
gặp phải tự qui chiếu (self-reference), nghĩa là những phương tŕnh đại số
trong đó biến số buộc phải tự tham khảo chính nó. Thông thường ch́a khóa
để giải các phương tŕnh đại số là t́m cách đưa biến số không biết về chỉ
một vế của phương tŕnh. Nhưng trong các phương tŕnh tự qui chiếu, biến
số tự qui chiếu (self-referential), nghĩa là hiện ra trong cả hai vế,
không cách nào đưa về cùng một vế được.
Phương tŕnh tự qui chiếu trong phép tính chỉ trỏ xuất hiện dưới hai dạng.
Dạng 1:
Phương tŕnh tự qui chiếu E2:
Biến số f2 tự qui chiếu, nghĩa là, trị của f2 tức lời giải của phương
tŕnh buộc phải đặt trở lại vào trong biểu thức là nơi nương vào để t́m
lời giải. Phương tŕnh E2 này không gặp khó khăn khi giải. Trị có dấu vạch
( ), hay trị không dấu vạch (trống) khi thay vào biến số f2 đều là lời
giải thỏa đáng của phương tŕnh, theo đúng qui tắc được chứng minh:
Dạng 2:
Phương tŕnh tự qui chiếu E3:
Biến số f3 tự qui chiếu, nghĩa là, trị của f3 tức lời giải của phương
tŕnh buộc phải đặt trở lại vào trong biểu thức là nơi nương vào để t́m
lời giải. Nhưng lần này, E3 gặp phải một nghịch lư. V́ trị của
tương
phản với trị của f3 cho nên trong phương tŕnh dạng 2 nếu trị của f3 = có
dấu vạch, thời trị của f3 = không dấu vạch. Ngược lại, nếu trị của f3 =
không dấu vạch, thời trị của f3 = có dấu vạch. Trong trường hợp này, lời
giải của phương tŕnh lúc đầu là có dấu vạch, thứ đến là không dấu vạch,
rồi có dấu vạch, không dấu vạch, như thế măi măi. Sự tái nhập (reentry)
các trị hay sự vượt quá qua lại đều đặn hai trị có dấu vạch và không dấu
vạch, Spencer-Brown gọi là “dao động” (oscillation) trong không gian dựng
khởi bởi hai trạng thái, có dấu vạch và không dấu vạch. Quả thật là một sự
bất ngờ v́ trong không gian của phép tính chỉ trỏ, nếu một phương tŕnh có
lời giải thời chỉ có thể là một trong hai trạng thái, có dấu vạch hay
không dấu vạch, mà thôi.
Suốt hơn sáu năm sử dụng phương tŕnh tự qui chiếu E3 biểu diễn nghịch lư
‘trạng thái có dấu vạch = trạng thái không dấu vạch’ (
), ông không làm sao cắt nghĩa được ư nghĩa của lời giải dao động. Cuối
cùng ông nhận ra đấy là trường hợp cùng một trạng huống với sự sử dụng số
ảo để giải phương tŕnh:
Nếu x = -1, thời x = +1; ngược lại, nếu x = +1, thời x = -1. Lời giải dao
động giữa hai trị, -1 và +1. Để tránh nghịch lư, số ảo i (i2 = -1) được
chọn làm lời giải: x = i.
Mặt khác, số ảo được dùng trong thuyết tương đối và cơ học lượng tử để
biểu diễn thời gian.
Công dụng nói trên của số ảo đă khiến Spencer-Brown, thay v́ nh́n vào hai
lời giải đối lập như đồng thời hiện hữu, giải thích đó là dao động với
thời gian giữa hai trạng thái tương phản. Nói cách khác, dao động giữa hai
trạng thái, có dấu vạch và không dấu vạch, tạo thành thời gian trong cái
thế giới do Luật H́nh trạng dựng khởi. Varela công nhận đó là một ư niệm
rất sâu sắc, “một trong những đóng góp đáng kể nhất của Spencer-Brown.”
Không gian do Luật H́nh trạng tạo ra là không gian không chiều (no
dimension), thời gian cũng vậy. Ở đây thời gian không thể diễn tả bằng
giờ, phút, và giây, nó thượng cổ hơn nhiều. Thời gian không chiều là một
phương tiện để giải các bài toán tự qui chiếu, như trong khi sử dụng các
máy tính chẳng hạn. Thảo chương viên dùng từ “iteration” (phép lặp) để mô
tả sự chuyển động của chương tŕnh từ trạng thái này qua trạng thái khác.
Chương tŕnh máy tính thường đếm số lần thực hiện một chương tŕnh con
(subroutine) bằng cách thêm vào một lệnh như là: n = n + 1 và kiểm tra trị
của “n” để xem chương tŕnh con chạy đủ số hay chưa. Trên phương diện thời
gian, trị của “n” ở vế đầu của phương tŕnh đến sau so với trị của “n” ở
vế thứ hai. Ở đây tuy nói đến thời gian nhưng là thời gian không chiều.
Không thể bảo rằng “n” này có trị một ngày hay một giờ hay một phút hay
một giây chậm hơn trị của “n” kia. Điều duy nhất biết được là trạng thái
này của “n” chậm hơn trạng thái kia. Thật không khác nào bằng một tác động
đơn giản vẽ ra một phân biệt tạo thành một không gian không chiều.
Tự qui chiếu và Bản ngă.
Nhà sinh học và điều khiển học (cybernetics; khoa học về hệ thống và điều
khiển căn cứ vào hồi tiếp) Varela quyết định tiếp tục công tŕnh của
Spencer-Brown đă ngưng lại ở điểm nhận xét quá tŕnh tự quy chiếu tạo
thành thời gian. Ông nới rộng phép tính hai trị của Spencer-Brown thành
một phép tính ba trị. Lư do: trong thế giới ta đang sống, không chỉ có tác
động chỉ trỏ phân biệt giữa hai trạng thái mà c̣n có một tác động không
ngừng tái xác nhận tánh đồng nhất. Varela phát giác một nguyên lư cực thâm
về chính ngay sự dựng khởi cấu trúc của vũ trụ: mọi hệ thống tự tạo tự
sinh (hay tự tổ chức) tồn tại được là do có khả năng không ngừng tái nhập
chính nó, nghĩa là, tạo những ṿng tái diễn trong đó các thành phẩm (end
products) hồi tiếp trở lại hệ thống như những điểm khởi đầu mới.
Trong phép tính mà ông gọi là phép tính Tự qui chiếu (Calculus of
Self-Reference), ông chọn tánh tái nhập hay tự qui chiếu làm tiên đề thứ
ba, ngoài hai tiên đề (1) và (2) của phép tính chỉ trỏ. Ngoài hai trị, có
dấu vạch (
|) và
không dấu vạch (trống), ông thêm trị thứ ba gọi là tự qui chiếu hay tự
trị,
. Trong trường hợp giải thích chân trị (truth value) của ‘
| ’ là đúng
tức không sai, của ‘ ‘ là sai tức không đúng, thời chân trị của ‘
’ là tự
trị tức không chính nó: Nếu @ =
thời
@ = .
Sự lựa chọn này cho thấy Varela không c̣n dùng logic hai trị của
Aristotle, ĺa bỏ luật đồng nhất, A không bao giờ bằng không-A, luật triệt
tam, hoặc là A, hoặc là không-A, không thể cái nào khác (Đúng = A hay
không-A), và luật phi mâu thuẫn, A không thể vừa là A vừa là không-A.
Ngược lại, phép tính tự qui chiếu công nhận mâu thuẫn, A = không-A, hay
một mệnh đề có thể đồng thời vừa đúng vừa sai. Hơn nữa, mâu thuẫn hay
nghịch lư, theo Varela, là điều kiện tồn tại của các hệ tự trị trong thiên
nhiên. Với động lực của tự qui chiếu trong lơi, các hệ tự tạo tự sinh là
hóa thân của nghịch lư tại biên giới của chúng, biểu thị tính chất mâu
thuẫn của tự trị, kín về phương diện tổ chức nhưng hở về phương diện cấu
trúc. Nghịch lư thể hiện tại mức căn bản nhất, ngay chính nơi h́nh trạng.
Với h́nh trạng hữu cơ hay vô cơ, các hệ thống tự trị hiện thành, chi tŕ
bởi bản tính mâu thuẫn.
Nói về hệ thống tự trị, Varela phát biểu ư kiến: “Phân biệt (distinction)
cộng tồn với ư hướng (intentionality). Một trường hợp căn bản đặc biệt là
tánh tự trị: một hệ thống xác định với ư hướng bảo tŕ biên giới của chính
nó; điều này tuồng như tương đương với cái mà chúng ta gọi là cá tánh, rất
dễ nhận thấy nơi những cá thể (sự bảo toàn ngă hay bản ngă) hay nơi những
đơn vị xă hội (hội đoàn, văn hóa thiểu số, quốc gia). Trong t́nh huống
này, không những chỉ có phân biệt mà c̣n có chỉ trỏ, nghĩa là, đánh dấu
một trong hai trạng thái phân biệt được xem là quan trọng (“cái này”,
“tôi”, “chúng ta”, v.v...) … Sự thiết lập biên giới hệ thống không tránh
khỏi kết hợp với cái mà tôi gọi là quan điểm nhận thức, nghĩa là, một tập
hợp riêng những giả định và thái độ, một lối nh́n, hay một khung ư niệm.”
Theo ông, “chỉ trong khoa học xă hội ở thế kỷ 19 khái niệm trừu tượng về
phép biện chứng của các đối lập mới được thi thiết. Điều này cũng áp dụng
cho những tính chất của quan sát viên. ... Có sự phản chiếu lẫn nhau giữa
chủ thể mô tả và sự mô tả. Nhưng ở đây lần nữa chúng ta quen nh́n những
cụm từ sau đây như đối lập: quan sát viên / cái bị quan sát, chủ thể / đối
tượng, xem đó là những cặp phạm trù đối lập của Hegel. Theo tôi, các cặp
đó không thực sự đối lập, chúng là thành phần của một toàn thể lớn hơn, và
toàn thể này ở mức siêu việt đối lập.” Varela muốn nói rằng các phần tử
hay tập hợp phần tử tương phản có thể gom vào trong một kiến trúc, coi
chúng tương quan liên hệ bổ sung nhau. Khả năng thực hiện sự bao gồm đó là
do một chuyển tiếp từ b́nh diện hai cực (dualities) lên b́nh diện ba ngôi
(trinities).
“Ba ngôi” hiểu theo Varela có nghĩa là “quán tưởng cách thức các cặp (cực,
cực đoan, phương thức, phía bên) tương hỗ quan hệ nhưng vẫn phân biệt”,
cách thức chúng không một, không hai. Varela muốn xây dựng một h́nh thức
biện chứng mới, thay thế “bộ ba” của Hegel bằng một lệnh chỉ rơ làm thế
nào để chuyển tiếp từ hai cực lên ba ngôi, đặt tên là lệnh sao “*” (star
statement). Thí dụ lệnh sao:
* = toàn thể / thành phần cấu tạo toàn thể
Trong lệnh sao *, dấu ‘/’ đọc là: hăy cân nhắc cả hai bên của dấu. Nghĩa
là, phải cân nhắc cụm từ “toàn thể” ở bên trái của dấu và cụm từ “thành
phần cấu tạo toàn thể” ở bên phải. Toàn thể ở đây có nghĩa là một tập hợp
các đồng thời tương tác giữa những thành phần; thành phần là những tập hợp
con các tương tác có thể tách riêng khỏi toàn thể để khảo sát sự tham gia
của chúng trong những quá tŕnh tạo nên toàn thể. Cặp nhị nguyên cổ điển
‘toàn thể luận / quy giảm luận’ (holism / reductionism), cũng như các cặp
‘tồn tại / sinh thành’ (being / becoming), ‘không gian / thời gian’, ‘cấu
trúc / nội dung’ (structure / content), ‘môi trường / hệ thống’
(environment / system) đều có thể đặt trong khung ư niệm bổ sung theo dạng
lệnh sao. Một cách tổng quát, Valera nói, “hăy chọn bất kỳ t́nh huống nào
(cảnh giới, quá tŕnh, đơn vị, khái niệm) có tánh tự trị (toàn phần, viên
măn, ổn định, tự túc), và đặt nó bên trái của dấu ‘/’. Bên phải thời đặt
quá tŕnh tương ứng dẫn đến t́nh huống ghi phía bên trái (cấu tử, động
lực) .... Trong mỗi trường hợp như thế các phần tử ở hai bên xem như bổ
sung nhau và xác định lẫn nhau. Theo nghĩa đó, chúng không c̣n đối lập nữa
v́ tương hỗ quan hệ.
Valera dùng các h́nh vẽ sau đây để giải thích sự khác biệt giữa biện chứng
của bổ sung và biện chứng của đối lập.
H́nh 1.
H́nh 1 biểu diễn dạng biện chứng của đối lập. Dạng này đối xứng. Cả hai
cực thuộc cùng một b́nh diện và đối đầu nhau. Logic biện chứng của đối lập
tựa trên phủ định, cực này phủ định cực kia: A / không-A
H́nh 2.
H́nh 2 biểu diễn dạng biện chứng của bổ sung. Trong trường hợp này nhị
nguyên được biểu diễn bởi hai b́nh diện chồng trùng nhau, một trạng thái ở
b́nh diện này xuất khởi từ trạng thái ở b́nh diện kia. Do đó, dạng căn bản
của biện chứng bổ sung không đối xứng. Cả hai trạng thái vượt qua b́nh
diện của nhau. Logic biện chứng của bổ sung nương trên tự qui chiếu, nghĩa
là, những cặp của h́nh trạng: Cái đó / Quá tŕnh dẫn đến cái đó (it /
process leading to it).
Cặp đối lập bắt buộc ở trên cùng một b́nh diện, và ở tại đó chừng nào
chúng c̣n được xem như đối lập và mâu thuẫn. Cặp của h́nh trạng lệnh sao
bắc cầu băng qua một b́nh diện của sự mô tả và xác định lẫn nhau. Cắt
nghĩa theo trên thời hai phương pháp biện chứng, đối lập và bổ sung, không
khác chút nào so với hai mô thức phân tích, năng sở và thể dụng.
Tổng quát hóa sự chuyển tiếp từ hai cực lên ba ngôi, Varela xướng lên một
qui tắc có tính cách giải thích về nhị nguyên như sau.
“Với mỗi cặp Hegel có dạng A / không-A, tương ưng một lệnh sao trong đó
những cặp bề ngoài có vẻ đối lập đều là thành phần của phía tay phải (của
dấu /).”
Varela thấy rơ các các cặp có vẻ đối lập thật ra tất cả đều do một tác
động phân biệt (Spencer-Brown), v́ vậy chúng kết nối nhau chằng chịt thông
qua một ngôi thứ ba, tác động chỉ trỏ đă tạo ra chúng. Tác động chỉ trỏ
này ở trên b́nh diện siêu quá đối lập kết hợp chúng thành một toàn thể lớn
hơn.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ, thí dụ đầu tiên về tự qui chiếu là câu nói của
Epimenides (thế kỷ 7 tdl): “Tất cả dân xứ Crete nói láo”, nay được gọi là
Nghịch lư của người nói láo (The Liar’s paradox), và từ đó tự qui chiếu
được kết nối với nghịch lư (paradox). Câu ấy có thể sửa lại và phát biểu
một cách đơn giản hơn: C = “Câu này sai”, suy ra thành hai câu sau đây:
Nếu C đúng thời C nói C sai.
Nếu C sai thời C nói C đúng.
Tóm lại, C = không-C, nghịch lư.
Tự qui chiếu với khuynh hướng tạo nghịch lư đă gây khủng hoảng trầm trọng
trong cơ sở toán học vào đầu thế kỷ 20. Nghịch lư nổi tiếng nhất lúc bấy
giờ là nghịch lư Russell, Bertrand Russell khám phá vào năm 1901 khi đang
cùng với Alfred North Whitehead viết bộ sách Principia Mathematica (Những
nguyên lư Toán học). Đại khái nó giống như nghịch lư Thợ cạo sau đây.
Trong một thị trấn nhỏ, một thợ cạo hớt tóc tất cả những ai không tự hớt
tóc, và không hớt tóc cho những ai tự hớt tóc.Thử hỏi thợ cạo ấy tự hớt
tóc hay không? Giả sử ông tự hớt tóc. Nhưng theo nửa sau của câu đầu, ông
không hớt tóc cho những ai tự hớt tóc, trong số đó có ông. Mâu thuẫn. Giả
sử ông không tự hớt tóc. Theo nửa trước của câu đầu ông hớt tóc tất cả
những ai không tự hớt tóc, trong số đó có ông. Mâu thuẫn.
Bây giờ, thay thế “những ai” bằng “tập hợp” và “hớt tóc” bằng “chứa”. Ta
có nghịch lư Russell: Cho một tập hợp H chứa tất cả những tập hợp không tự
chứa và không chứa tập hợp nào tự chứa. Thử hỏi H tự chứa hay không? Giả
sử H tự chứa. Nhưng theo nửa sau của câu đầu, H không chứa tập hợp nào tự
chứa, trong số đó có nó. Mâu thuẫn. Giả sử H không tự chứa. Theo nửa trước
của câu đầu, H chứa tất cả những tập hợp không tự chứa, trong số đó có nó.
Mâu thuẫn.
V́ thuyết tập hợp là cơ sở của toán học, cho nên một khi mâu thuẫn xuất
hiện trong cơ sở thời toán học có thể chứng minh bất cứ điều ǵ và hết
thảy mọi điều. Mâu thuẫn là do tự qui chiếu mang đến. Bởi thế muốn loại
trừ mâu thuẫn hay nghịch lư thời phải loại trừ tự qui chiếu và bất cứ
nguyên nhân nào phát sinh nó. Đó là điều không dễ thực hiện v́ rất khó
nhận ra nơi phát sinh tự qui chiếu. Hơn nữa, nghịch lư có thể quảng diễn
theo nhiều bậc, chẳng hạn nghịch lư Epimenides có thể mở rộng thành hai
câu, nhắc ta nhớ đến h́nh Tay vẽ tay của Escher:
Câu sau sai,
Câu trước đúng.
Toàn bộ hai câu có hiệu quả mâu thuẫn giống như câu C = “Câu này sai”,
nhưng riêng biệt mỗi câu thời vô hại. Lỗi mâu thuẫn không thể đổ cho câu
này hay câu kia mà tại cách thức hai câu chỉ trỏ lẫn nhau.
Nhằm loại trừ tự qui chiếu ra khỏi logic, thuyết tập hợp, và thuyết về số
(number theory) Russell và Whitehead thành lập thuyết các mẫu (Theory of
types). Mục tiêu của thuyết này là dẫn xuất tất cả toán học từ logic mà
không gặp phải mâu thuẫn! Nhà toán học Đức David Hilbert không tin như
thế. Ông thách đố cộng đồng toán gia thế giới chứng minh một cách chính
xác hệ thống toán học minh định trong Principia Mathematica vừa phi mâu
thuẫn (consistent) vừa hoàn chỉnh [complete; nghĩa là, hết thảy mọi mệnh
đề đúng của thuyết về số có thể dẫn xuất trong khung toán học của
Principia Mathematica].
Vào năm 1931, Kurt Gưdel công bố một kết quả động trời (Định lư về tánh
không hoàn chỉnh; The Incompleteness theorem) cho biết bất kỳ hệ thống
toán học nào có khả năng thực hiện những phép toán số học căn bản, thời
hoặc mâu thuẫn hoặc không hoàn chỉnh. Hơn nữa, một hệ thống phi mâu thuẫn
không thể chứng minh tánh phi mâu thuẫn của chính nó.
Kết quả xác quyết toán học không thể thu về một tập hợp tiên đề phi mâu
thuẫn như hệ thống đề xướng trong Principia Mathematica, từ đó dẫn xuất
hết thảy mọi mệnh đề đúng của thuyết về số. Trớ trêu nhất là khi chứng
minh định lư của ông, Gưdel đă đem nghịch lư Epimenides vào ngay trung tâm
của Principia Mathematica, pháo đài mà Russell và Whitehead tin tưởng kiên
cố không thể nào bị tự qui chiếu tấn công.
Trong ngôn ngữ thường ngày cũng thấy xuất hiện tự qui chiếu, nhưng không
nhất thiết nghịch lư. Đặc biệt là dạng thức tự qui chiếu trong tiếng Việt.
Trên phương diện tự qui chiếu tiếng Việt rất phong phú so với tiếng Anh và
tiếng của nhiều nước khác.
Trước hết, nói đến đại danh từ tự qui chiếu trong tiếng Việt (Vietnamese
self-referential pronouns). Hăy chú ư đến các câu sau đây:
Bố suy nghĩ, đây là lời của một người cha;
Mẹ suy nghĩ, đây là lời của một bà mẹ;
Con suy nghĩ, đây là lời của một người con;
Anh suy nghĩ, đây là lời của một người anh;
Chị suy nghĩ, đây là lời của một người chị;
Em suy nghĩ. Đây là lời của một người em.
Những tiếng ‘bố’, ‘mẹ’, ‘con’, ‘anh’, ‘chị’, ‘em’, đều do người đang nói
sử dụng để tự qui chiếu. Nếu dịch qua tiếng Anh thời chữ ‘I’ là chữ duy
nhất thích hợp, nhưng chữ ‘I’ thiếu khả năng diễn tả t́nh huống phát biểu
trong đó người nói và người nghe có quan hệ gia đ́nh như trong các câu
trên. Những từ cú tự qui chiếu tiếng Việt có ư nghĩa hợp cách hay không là
tùy thuộc trạng thái của t́nh huống phát biểu, khác hẳn những trạng thái
xác định bởi từ ‘I’. Mặt khác, khi nói chuyện với cha mẹ, một người Mỹ
dùng chữ ‘I’, chữ ‘me’ tự qui chiếu, nhưng người Việt không cho phép người
con dùng chữ ‘tôi’. Dạng thức tự qui chiếu trong ngôn ngữ Việt bao hàm
luôn cả lối xưng hô theo đạo đức truyền thống.
Chữ ‘I’ không thể qui chiếu bất cứ ai, ngoại trừ chính người đang nói.
Trong cùng một câu chuyện với người khác, thời dùng chữ ‘you’ để chỉ người
kia, không cần phân biệt người ấy là ai. Khi hai người nói chuyện với
nhau, người nào cũng dùng chữ ‘I’ và chữ ‘you’ giống nhau, mặc dầu điểm
qui chiếu khác nhau. Tiếng Việt khác hẳn. Trường hợp mẹ con nói với nhau,
một bên xưng ‘mẹ’ nói với ‘con’ và bên kia phải đổi lại ‘con’ nói với
‘mẹ’. Thứ tự (mẹ, con) và (con, mẹ) xác định quan hệ gia đ́nh giữa hai đối
thoại viên.
Nhiều tiếng Việt tự qui chiếu như ‘ta’, ‘tôi’, ḿnh’, có công dụng phần
nào giống tiếng ‘I’, và thường cũng được sử dụng như tiếng ‘I’ khi nói hay
suy gẫm một ḿnh. ‘Tôi’ nguyên là tiếng xưng của một vị quan khi nói với
vua. ‘Ta’ được dùng khi một người trên nói với kẻ dưới. ‘Ḿnh’ thường được
sử dụng giữa vợ chồng hay bạn bè thân thiết. Khác với ‘I’, những tiếng ấy
tuy không hàm ư quan hệ gia đ́nh giữa người nói và người nghe, nhưng vẫn
phụ thuộc t́nh huống của cuộc nói chuyện, không thể dùng để tự qui chiếu
trong bất cứ cảnh ngộ nào.
Ngoài ra, tiếng Việt có những từ như bản ngă (self, ego, atman) hay vô bản
ngă (egoless) nhưng không có tiếng nào tương ứng chính xác với chữ
‘myself’ dùng trong lời của người cha, bà mẹ, người con, … tuy có thể dịch
gần đúng là ‘chính bố’, ‘chính mẹ’, ‘chính con’, … Như thế, có bao nhiêu
cách xưng hô thời chữ ‘myself’có bấy nhiêu nghĩa.
So sánh hai câu “Mẹ suy nghĩ” và “I am thinking”, thời điều kiện tiên
quyết để có thể phát biểu câu đầu là người nói tin tưởng ḿnh là mẹ của
người nghe, câu sau không đ̣i hỏi một điều kiện như vậy. Nói như thế không
có nghĩa là câu “Mẹ suy nghĩ” biểu dương phẩm chất Mẹ của bản ngă người
nói. Thật ra, nó biểu dương bản ngă người nói với tư cách một người mẹ, tư
cách này xem như một phương diện (profile) của bản ngă. Như vậy, điều kiện
tiên quyết để có thể phát biểu câu tiếng Việt giả định một bản thể của
những bản ngă phương diện (an ontology of ego-profiles), mỗi phương diện
hiển bày một mối quan hệ của bản ngă.
Tuy nhiên, tiếng Việt không có đại danh từ khả dĩ biểu thị sự biểu dương
chính ngay bản ngă trong các câu tự qui chiếu. Nhưng không phải v́ thế mà
người Việt không nhận ra tánh nhất thể của một bản ngă đơn thuần xuyên qua
một kết hợp nhiều bản ngă phương diện. Bản ngă trong tư cách người mẹ và
bản ngă trong tư cách người con đều là những cách thế hiển bày khác nhau
của một bản ngă đơn thuần. Nhất thể của tất cả là một nhất thể hiện có
trong mỗi phương diện. Tiếng Việt không cần một từ cú tự qui chiếu để biểu
thị nhất thể như thị v́ nhất thể như thị tiềm ẩn trong mỗi bản ngă phương
diện. Tiếng Việt không tiếp cận bản ngă một cách trực tiếp và vô sai biệt
mà buộc bản ngă phải tự nó trưng dẫn cho chính nó nhiều bộ mặt khác nhau.
Đây là một kiểu tác động tự qui chiếu hoàn toàn qua trung gian các bản ngă
phương diện. Mỗi bản ngă phương diện biểu lộ toàn thể thống nhất hữu cơ
của tất cả bản ngă phương diện.
Một vấn đề xuất hiện khi quan niệm ‘mẹ’ là ‘bản ngă trong tư cách mẹ của
người kia’, và sử dụng logic thay thế ‘người kia’ với câu định nghĩa, ‘tha
nhân trong tư cách con của mẹ’. Như vậy, ‘mẹ’ là ‘bản ngă trong tư cách mẹ
của tha nhân trong tư cách con của mẹ’. Không cần tiếp tục thay thế chữ
‘mẹ’ và chữ ‘người kia’ v́ ngang đây ta đă nhận thấy sự phát khởi một
trạng huống hồi qui bất tận (infinite regress). Sở dĩ gặp phải trạng huống
hồi qui bất tận là v́ nhận định trong chữ ‘mẹ’ ẩn nghĩa chữ ‘I’ (‘I’ bất
biến trong bất kỳ t́nh huống phát biểu nào) và thay thế chữ ‘mẹ’ và chữ
‘người kia’ mà không lưu ư đến t́nh huống phát biểu và điều kiện hợp cách
xưng hô. Kết luận: từ cú tiếng Việt không thể cắt nghĩa theo ngữ nghĩa
tiếng Anh trên phương diện luận lư.
Tuy nhiên ‘mẹ’ và ‘con’ cũng như mọi cặp tiếng Việt tự qui chiếu / lối
xưng hô khác định nghĩa lẫn nhau. ‘Mẹ’ biểu thị ‘bản ngă trong tư cách mẹ
của con’ và đồng thời ‘con’ biểu thị ‘tha nhân trong tư cách con của mẹ’.
Trong thực tế không thể tư qui chiếu trong tư cách ‘mẹ’ mà không đồng thời
giả định sự hiện hữu một người ‘con’. Trên phương diện tồn tại, ‘mẹ’ và
‘con’bất tương ly. Mọi tự qui chiếu bao hàm chẳng những người đối thoại mà
cả sự tin vào sự tồn tại của người ấy.
Tóm lại, dạng thức tự qui chiếu trong tiếng Việt biểu trưng lối nh́n của
người Việt xem bản ngă kinh nghiệm hằng ngày là bị ‘cấu thành’
(constituted; một khái niệm hiện tượng học của Husserl) xuyên qua các
‘phương diện’. Nghĩa là, bản ngă biểu hiện dưới nhiều bộ mặt khác nhau gọi
là bản ngă phương diện, mỗi bộ mặt là một mối quan hệ của nó. Nói cách
khác, bản ngă xuất khởi tùy duyên như một nút (node) trong một tấm thảm
bện chằng chịt sợi gọi là ‘bản ngă phương diện’, nhưng bây giờ đúng hơn
nên coi đó là những dạng thức của quan hệ tương hỗ cá thể (intersubjective
relatedness). Tương hỗ cá thể đến trước cá thể, một mạng lưới các sợi
tương hỗ cá thể đến trước sự xuất khởi của bản ngă.
Hiện có một số lư thuyết xă hội học căn cứ trên động lực của tự qui chiếu
chủ trương các ṿng tái hồi đáo của tương tác xă hội (recursive loops of
social interaction) cấu thành một mạng lưới các tương hỗ cá thể từ đó xuất
sinh ư niệm nhất thể về một tự kỷ đồng nhất, một bản ngă. Đây thật đúng là
ư tưởng Tương giao và Nhất thể phát xuất từ triết lư Hoa nghiêm do Pháp
Tạng thiết lập. Ư tưởng này tương hợp với thuyết Phức tạp tính (Complexity
theory) hiện đại giải thích sự xuất khởi hiện tượng từ một mạng lưới các
ṿng tái hồi đáo (tái nhập). Tánh xuất khởi cũng được đề cập trong một bài
giảng thuyết về Thiền (cho những người Tây phương) có đoạn Thiền sư D. T.
Suzuki tŕnh bày năm ‘giai đoạn’ gọi là ‘ngũ vị’ trong pháp môn Thiền. Sau
đây xin trích đoạn ấy từ tập sách Thiền và Phân tâm học, nguyên tác tiếng
Anh là Zen Buddhism and Psychoanalysis, do Erich Fromm biên soạn.
“Chữ ‘ngũ’ trong ngũ vị có nghĩa là ‘năm’ và ‘vị’ có nghĩa là ‘một vị trí’
hay ‘một nấc’ hay ‘giai đoạn’. Năm cái này có thể chia thành hai nhóm: lư
tính và t́nh cảm hay ư chí. Ba giai đoạn đầu là lư tính và hai giai đoạn
sau là t́nh cảm hay ư chí. Giai đoạn giữa, giai đoạn thứ ba, là điểm
chuyển tiếp ở đó lư tính bắt đầu trở thành ư chí và kiến thức biến thành
đời sống. Ở đây lư hội lư tính về sinh mệnh Thiền trở nên năng động. ‘Lời’
trở thành da thịt; cái ư niệm trừu tượng chuyển hóa thành một con người
sống động, cảm giác, muốn, hy vọng, mong mỏi, chịu khổ, và có khả năng làm
bất cứ công việc ǵ.
Trong giai đoạn thứ nhất của hai giai đoạn sau, Thiền gia nỗ lực thực hiện
duệ trí của ḿnh tới cùng cực khả năng ḿnh. Trong giai đoạn cuối hắn đến
được mục tiêu mà thực ra chẳng là mục tiêu.
Ngũ vị theo Hoa ngữ như sau:
1. Chính trung thiên, Nhật ngữ: ‘cái thiên (hen) ở trong cái chính (shư).’
2. Thiên trung chính, Nhật ngữ: ‘cái chính (shư) ở trong cái thiên (hen).’
3. Chính trung lai, Nhật ngữ: ‘sự đến từ cái chính (shư).’
4. Kiêm trung chí, Nhật ngữ: ‘sự đến từ cái kiêm (ken).’
5. Kiêm trung đáo, Nhật ngữ: ‘sự ổn định trong cái kiêm (ken).’
Cái chính và cái thiên cấu thành một lưỡng nguyên tính như âm và dương
trong triết học Trung Hoa. Chính nghĩa đen là ‘phải’, thẳng’, ‘đúng’,
‘tiêu chuẩn’, và thiên là ‘thiên vị’, ‘một mặt’, ‘không cân đối’, ‘lệch’.
Tương đương Việt ngữ (Anh ngữ trong nguyên tác) tương tự như vậy đây:
Chính |
Thiên |
Tuyệt đối |
Tương đối |
Vô hạn |
Hữu hạn |
Một |
Nhiều |
Thượng Đế |
Thế gian |
Tối (b́nh đẳng) |
Sáng (sai biệt) |
Đồng |
Dị |
Tánh Không |
Danh sắc |
Trí |
Bi |
Lư (cái phổ quát) |
Sự (cái đặc thù) |
(Lấy A chỉ ‘chính’ và B chỉ ‘thiên’)
(1) Chính trung thiên, Nhật ngữ: ‘cái thiên (hen) ở trong cái chính
(shư)’, có nghĩa là cái một trong cái nhiều, Thượng Đế trong thế gian, cái
vô hạn trong cái hữu hạn, v.v… Khi chúng ta suy nghĩ, chính và thiên đứng
đối nghịch và không thể ḥa giải được. Nhưng sự thật chính không thể là
chính mà thiên cũng không thể là thiên khi mỗi cái đứng một ḿnh. Cái làm
cái nhiều (thiên) nhiều là bởi tại cái một ở trong nó. Nếu cái một không
có đó, chúng ta cũng chẳng nói được về cái nhiều.
(2) Thiên trung chính, Nhật ngữ: ‘cái chính (shư) ở trong cái thiên
(hen)’, bổ túc (1). Nếu cái một là cái nhiều, cái nhiều phải là cái một.
Cái nhiều là cái làm cái một có thể có. Thượng Đế là thế gian và thế gian
là Thượng Đế. Thượng Đế và thế gian tách biệt chứ không đồng nhất trong
cái ư nghĩa là Thượng Đế không thể hiện hữu ngoài thế gian và không thể
phân biệt Thượng Đế với thế gian. Hai cái là một nhưng mỗi cái vẫn duy tŕ
cá tính của ḿnh: Thượng Đế đặc thù hóa vô cùng và thế giới của những đặc
thù thấy ḿnh nương náu trong ḷng Thượng Đế.
(3) Bây giờ chúng ta đến giai đoạn thứ ba trong đời sống của Thiền gia.
Đây là điểm then chốt nhất ở đó cái tính chất lư trí của hai giai đoạn
trên tự chuyển hóa thành ư chí và hắn thực sự trở thành một cá nhân sống
động, cảm giác, và ư muốn. Cho đến nay hắn là cái đầu, là trí năng, dù ta
có muốn hiểu điều này theo một nghĩa chính xác đến mấy đi nữa. Giờ đây nó
được trang bị cái thân với tất cả những tạng phủ và cả với tứ chi, nhất là
với đôi tay, mà số lượng có thể tăng tới cả ngàn (tượng trưng một cái vô
hạn) giống như những tay của Quan Âm Bồ tát. Và trong đời sống nội tâm hắn
cảm thấy giống như đức Phật hài đồng thốt ra, ngay khi vừa lọt ḷng mẹ,
phán ngôn này: ‘Thiên thượng địa hạ duy ngă độc tôn.’
T́nh cờ, khi tôi trích lời thổ lộ này của đức Phật, những người có đầu óc
khoa học có thể cười và nói: ‘Vô lư làm sao! Làm thế nào mà một đứa bé vừa
ra khỏi ḷng mẹ lại nói ra một câu triết lư sâu xa như vậy được? Hoàn toàn
không tin được!’ Tôi cho rằng họ nói phải. Nhưng ta phải nhớ rằng, trong
khi chúng ta là những sinh linh duy lư, tôi hy vọng, đồng thời chúng ta là
những tạo vật phi lư nhất; ưa thích đủ thứ phi lư mà ta gọi là những phép
lạ. Không phải rằng Christ đă phục sinh từ cái chết và đi lên cơi trời, dù
ta không biết đó là thứ cơi trời ǵ? Không phải rằng thân mẫu người, đức
Đồng Trinh Maria, ngay khi c̣n sống cũng đă làm một phép lạ như vậy? Lư
trí cho ta biết một cái nhưng có một cái ǵ ngoài lư trí ở trong mọi người
chúng ta sẵn sàng chấp nhận phép lạ. Thật ra, chúng ta, thứ chúng sinh
thường t́nh nhất, cũng làm những phép lạ vào mọi giây phút của đời chúng
ta, bất chấp những dị biệt tôn giáo.
Chính Luther đă nói, ‘Tôi đứng đây, tôi không thể làm ǵ khác.’ Chính Bách
Trượng, khi được hỏi cái ǵ là điều tuyệt diệu nhất, đă đáp, ‘Ta ngồi một
ḿnh trên đỉnh Đại Hùng.’ (Tăng vấn Bách Trượng, Như hà thị kỳ đặc sự.
Trượng vân, độc tọa Đại Hùng phong.)
Núi Đại Hùng là nơi tự viện của Sư tọa lạc. Trong nguyên ngữ Trung Hoa
không hề có sự đề cập đến một vật ǵ hay một người nào đang ngồi; chỉ độc
có ‘Một ḿnh ngồi đỉnh Đại Hùng’ (Độc tọa Đại Hùng phong) Người ngồi không
tách biệt với núi. Cái đơn độc của Thiền gia, bất chấp việc hắn hiện hữu
trong một thế giới đa tạp, thật đáng chú ư.
‘Vô vị chân nhân’ của Lâm Tế chẳng là ǵ khác hơn là cái kẻ hiện giây phút
này ở trước mặt mọi người chúng ta, chắc chắn đang lắng nghe giọng tôi khi
tôi nói hay lời tôi khi tôi viết. Đây há không phải một sự kiện kỳ đặc
nhất mà tất cả chúng ta đang thể nghiệm? Do đó nó là cái cảm thức về ‘sự
huyền nhiệm của hiện hữu’ của triết gia, nếu như ông ta thực sự cảm thấy
nó.
Chúng ta thường nói về ‘tôi’, nhưng tôi chỉ là một đại danh từ chứ không
phải chính thực tại. Tôi luôn luôn thấy muốn hỏi, chữ ‘tôi’ nó chỉ cho cái
ǵ? Khi nào ‘tôi’ c̣n là một đại danh từ như ‘anh’ hay ‘nó’ hay ‘nàng’ hay
‘cái ấy’, cái ǵ là cái đứng đằng sau nó? Quư vị có thể nhặt nó lên và nói
với tôi, ‘Đây là cái ấy?’ Nhà tâm lư cho chúng ta biết rằng ‘tôi’không
hiện hữu, rằng nó chỉ là một khái niệm thuần túy chỉ thị một cơ cấu hay
một tích hợp những tương hệ. Nhưng điều lạ là khi cái ‘tôi’ nổi giận, nó
muốn hủy diệt cả thế giới, cùng với cả chính cái cơ cấu mà nó biểu tượng.
Một khái niệm thuần túy lấy cái năng động tính của nó từ đâu? Cái ǵ đă
khiến cái ‘tôi’ tuyên bố nó là cái thực sự độc nhất hiện hữu? Cái ‘tôi’
không thể chỉ là một ảo tưởng hay một vọng tưởng, nó phải là một cái ǵ
thực sự và có thực chất hơn. Và nó đúng là thực hữu và có thực chất, v́ nó
có ‘ở đây’ nơi cái chính và cái thiên được hợp nhất như một đồng nhất tính
sống động của sự mâu thuẫn. Tất cả những quyền năng mà ‘tôi’ có phát sinh
từ đồng nhất tính này. Theo Meister Eckhart, con rận nơi Thượng Đế c̣n
thực hơn vị thiên thần tự hữu. Cái ‘tôi’ vọng tưởng không bao giờ có thể
là ‘đấng tôn quư nhất’.
Cái chính trong chính trung lai không được dùng với cùng ư nghĩa như trong
chính trung thiên hay trong thiên trung chính. Cái chính trong chính trung
lai phải được đọc chung với chữ trung theo sau là chính trung, có nghĩa là
‘ngay từ trong ḷng của chính như là thiên và thiên như là chính’. Lai là
‘đến’ hay ‘xuất hiện’. Do đó, toàn bộ,
chính trung lai, có nghĩa là, ‘cái
đến ngay từ ḷng của chính và thiên trong đồng nhất tính mâu thuẫn của
chúng.’
Nếu ta muốn lập những công thức sau đây trong đó chính là A và thiên là B,
giai đoạn thứ nhất là
Và giai đoạn thứ hai là
Vậy th́ giai đoạn thứ ba sẽ là
Nhưng bởi v́ giai đoạn thứ ba có nghĩa là khúc quanh của cái lư tính thành
cái ư chí và của luận lư thành cá tính, nên phải biểu thị nó theo cách sau
đây:
Thế có nghĩa là, phải biến mỗi đường thẳng thành một đường cong chỉ sự vận
động, và chúng ta phải nhớ rằng, v́ sự vận động này không phải chỉ là một
cái ǵ cơ giới, mà sống động, sáng tạo, và vô tận, mũi tên cong không đủ.
Có lẽ ta có thể đặt toàn thể biểu tượng vào một ṿng tṛn, biến nó tượng
trưng cho một dharmacakra (pháp luân), cái bánh xe vũ trụ trong sự tuần
hành bất tận của nó, như vầy:
Hay ta có thể phỏng theo cái biểu tượng của người Trung Hoa về triết lư Âm
Dương của họ làm một biểu tượng của Chính trung lai:
Lai trong chính trung lai rất quan trọng. Ở đây vận động được biểu thị,
cùng với chí trong giai đoạn thứ tư, kiêm trung chí. Lai là ‘xuất hiện’,
và chí có nghĩa là ‘trong tiến tŕnh đạt đến mục tiêu’, hay ‘đang chuyển
động đến mục đích’. Cái trừu tượng luận lư, Logos, giờ đây bước ra khỏi
cũi và trở thành hóa thân, nhân cách hóa, và bước ngay vào một thế giới đa
tạp như ‘kim mao sư tử’.
‘Kim mao sư tử’ này là cái ‘tôi’ đồng thời vừa hữu hạn vừa vô hạn, vô
thường và thường, hạn hẹp và tự do, tuyệt đối và tương đối. Cái h́nh ảnh
sống động này khiến tôi nhớ đến bức ‘Ki-tô vào Ngày Phán Xét’ danh tiếng
của Michelangelo, một bích họa trong Tháp Chuông Sistine. Nhưng cái ‘tôi’
của Thiền, theo những biểu hiện ngoại diện của nó, không hề giống đấng
Christ, quá nghị lực, uy nghi và oai vệ. Cái ‘tôi’ của Thiền th́ nhu ḿ,
hiền lành, và đầy khiêm tốn.
… … …
(4) Bởi v́ Thiền gia có đầu óc luận lư hay lư trí, hắn vẫn ư thức được cái
chính và cái thiên và có thể thấy thích đề cập đến cái đồng nhất tính mâu
thuẫn của chúng. Nhưng khi hắn bước vào Kiêm trung chí, hắn ra ngoài con
mắt của ngọn băo và đă lao ḿnh vào giữa cơn băo. Cả cái chính và cái
thiên bị ném cho bốn cơn gió. Con người giờ đây là chính cơn băo.
Kiêm có nghĩa là ‘cả hai’ và ám chỉ cái lưỡng nguyên của đen và trắng, tối
và sáng, yêu và ghét, thiện và ác — là hiện thực tính của cái thế gian mà
trong ấy Thiền gia hiện đang sống cuộc đời ḿnh. Trong khi Chính trung lai
vẫn khiến ta nhớ đến một cái ǵ trong hai giai đoạn trước, Kiêm trung chí
đă bỏ chúng lại đằng sau, v́ nó là chính đời sống bị lột mất các nghịch lư
trí thức của nó, hay đúng hơn, nó bao hàm một cách vô phân biệt, vô sai
biệt, hay đúng hơn, một cách toàn thể, tất cả mọi thứ có tính cách trí
thức hay t́nh cảm hay ư chí. Nó là cái thế giới như chúng ta có nó với tất
cả những ‘sự kiện thô bạo’, như một số triết gia coi vậy, đối diện chúng
ta một cách bất di dịch. Thiền gia giờ đây đă ‘đặt chân ḿnh’ (chí) ngay
vào chúng. Đời sống thực của hắn bắt đầu nơi đây. Đó là ư nghĩa của Kiêm
trung chí: ‘Bây giờ hắn đă đi vào giữa những cái nhị nguyên (kiêm). Ở đây,
đúng ra bắt đầu cuộc sống từ bi (karunà) của Thiền gia.
… … …
(5) Bây giờ chúng ta đến giai đoạn cuối cùng, Kiêm trung đáo. Dị biệt giữa
giai đoạn này với giai đoạn thứ tư là sử dụng đáo thay v́ chí. Thật ra chí
và đáo ngụ ư cùng một hành động, ‘đến’, ‘tới’. Nhưng theo giải thích
truyền thống, chí chưa hoàn thành cái tác động đến, người đi vẫn c̣n ở
trên đường đến đích, trong khi đáo biểu thị sự hoàn thành của tác động. Ở
đây Thiền gia đạt được mục tiêu, v́ hắn đă đến mục đích địa. Hắn làm việc
vẫn mănh liệt như bao giờ; hắn ở lại trên thế gian này giữa đồng loại.
Những sinh hoạt thường ngày của hắn không thay đổi; cái thay đổi là cái
chủ thể tính của hắn.”
Trên đây, câu có ư nghĩa tánh xuất khởi của thuyết Phức tạp tính chính là
câu “toàn bộ, chính trung lai, có nghĩa là, ‘cái đến ngay từ ḷng của
chính và thiên trong đồng nhất tính mâu thuẫn của chúng.’”
[c̣n tiếp]
H. D.
|