www.todinhlinhson.com

góp nhặt

 

Thích Tuệ Sỹ
Huyền Thoại Duy Ma Cật

những giá trị phổ quát của Bồ Tát hạnh (I)

(phần II)

(phần III)

Nhân đọc Triết Học Thế Thân bản dịch Việt
Về những minh họa từ Thiền Uyển Tập Anh
Buddhist Foundation of Economics

Lê Mạnh Thát

Triết Học Thế Thân (phần I)
(phần II)
(phần III)

(phần IV)

(phần V)

(Về Tự Trị - 1)
(Về Tự Trị - 2)
(Về Tự Trị - 3)
Một Số Nhận Xét Cuối Cùng
Ngôn Ngữ về Những Ǵ Hiện Hữu

Emperor Nhân Tông and the War of Defense

And The Trúc Lâm School

Thích Phước An

nhà thơ của Am Mây Trắng ở Thế Kỷ XVIII có bài bác Phật Giáo Không?

Toàn Nhật thiền sư..

Toàn Nhật thiền sư (tt)

Thích Thái Ḥa

Giới thiệu phẩm vua Diệu Trang Nghiêm - Kinh Pháp Hoa

Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa

Lịch Sử Phát Triển Phật Giáo Đại Thừa Bồ Tát Giới

Giới thiệu Phật Giáo Đại Thừa Bồ Tát Giới Phần(1)

Phần (2)

phần (3)

giới thiệu phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến phát trong kinh Pháp Hoa

Hồng Dương

Lưới Tương Giao (1)

Lưới Tương Giao (2)

Lưới Tương Giao (3)

Lưới Tương Giao (4)

Đốn Ngộ Tiệm Tu

Tín Là Trung Đạo

Tín và chứng trong kinh Hoa Nghiêm

Phân Biệt, Ngôn Ngữ và Tu chứng

E Conze

Vô Vi và Tiến Tŕnh Giải Thoát

Một số vấn đề trong ABHIDHARMA

 
  Tập San 19 HUYỀN THOẠI
DUY-MA-CẬT

Tuệ Sỹ
 

 

Kinh:
BẤY GIỜ, trong thành Tỳ-da-ly có vị trưởng giả tên Duy-ma-cật, đă từng cúng dường vô lượng chư Phật và trồng sâu gốc rễ thiện, chứng đắc vô sinh pháp nhẫn, có tài biện thuyết vô ngại, hiện du hí thần thông, nắm vững các tổng tŕ, đạt được vô sở úy; khuất phục mọi thù nghịch và quấy nhiễu của Ma, đă đi vào cửa Pháp sâu thẳm, thiện xảo trong trí độ, thông suốt các phương tiện, hoàn thành đại nguyện. Ông biết rơ xu hướng của tâm của chúng sinh, có thể phân biệt căn tính bén nhạy hay chậm lụt. Đă từ lâu tâm của ông đă thành thục trong Phật đạo, đă quyết định nơi Đại thừa. Mọi hành động của ông đều dựa trên tư duy chân chính. An trú trong oai nghi của Phật, tâm trải rộng như đại dương. Được chư Phật ca ngợi; Đế Thích, Phạm thiên, Thế chủ đều kính phục.
V́ để hóa độ nhiều người, bằng vào phương tiện thiện xảo, ông cư trú trong thành Tỳ-da-ly.
Bằng gia sản bất tận của ḿnh, ông bao bọc người cùng khổ. Bằng giới thanh tịnh, ông bao bọc người hủy phạm cấm giới. Bằng sự nhu thuận của nhẫn, ông bao bọc người sân hận hung dữ. Bằng đại tinh tấn, ông bao bọc người biếng nhác. Bằng nhất tâm, thiền định, tịch tĩnh, ông bao bọc những kẻ có tâm ư tán loạn. Bằng tuệ quyết định, ông bao bọc những hạng vô trí.
Tuy là hàng bạch y ông vẫn tuân hành mọi luật tắc thanh tịnh của Sa-môn. Tuy là cư sỹ ông vẫn tự tại không vướng mắc ba cơi. Tuy thị hiện có vợ con ông luôn sống đời tịnh hạnh. Tuy hiện thân giữa các thuộc hạ, vẫn thường vui thú viễn ly. Tuy mang ngọc vàng châu báu nhưng trang điểm thân ḿnh bằng tướng hảo. Dù thụ hưởng các thức ăn uống nhưng chỉ thưởng thức vị ngon của thiền. Đến phường cờ bạc để đưa người vượt thoát. Tiếp nhận dị đạo mà không hủy chính tín. Thông hiểu kinh điển thế gian, nhưng thường hâm mộ Pháp Phật. Ai gặp ông cũng đều kính nể, tôn kính vào hàng bậc nhất.
Ông chấp tŕ luật pháp, duy tŕ trật tự dưới trên. Hợp tác hài ḥa trong tất cả sự nghiệp buôn bán, tuy cũng gặt hái những tài lợi thế tục, ông không lấy đó làm mừng. Rong chơi trên các ngơ đường để giúp ích mọi người. Vào chốn công đường để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các luận nghị để đưa người vào Đại thừa. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu để khiến mọi người giữ vững ư chí.
Trong hàng trưởng giả, ông được các trưởng giả tôn kính để diễn thuyết những pháp tối thắng. Trong hàng cư sỹ, ông được cư sỹ tôn kính để dạy họ dứt trừ tham đắm thế tục. Trong hàng Sát-lị, ông được các Sát-lị tôn kính để dạy họ biết nhẫn nhục. Trong giới Bà-la-môn, ông được các Bà-la-môn tôn kính để dạy họ đoạn trừ ngă mạn. Trong các Đại thần, ông được các Đại thần tôn kính để dạy họ pháp luật công chính. Trong các Vương tử, ông được các Vương tử tôn kính để dạy họ đạo trung hiếu. Trong chốn cấm cung, ông được các nội quan tôn kính để giáo hóa hết thảy cung nữ đức hạnh.
Vào trong hạng thứ dân, ông được thứ dân tôn kính để khích lệ họ vun trồng phước đức. Trong hàng Phạm thiên, ông được các Phạm thiên tôn kính, hiển hiện cho Phạm thiên huệ tối thắng. Trong hàng Đế Thích, ông được Đế Thích tôn kính, chỉ họ thấy rơ tính vô thường. Trong hàng Hộ thế, ông được các vị Hộ thế tôn kính, khiến họ bảo vệ hết thảy chúng sinh.
Trưởng giả Duy-ma-cật đă bằng vô lượng phương tiện như vậy làm lợi ích cho chúng sinh.

*
Chùa tọa lạc sát quốc lộ 1. Những chuyến xe đ̣ từ Nam ra Trung, mỗi khi ngang qua chùa, thường vào khoảng xế trưa. Nắng xế vàng vơ, cảnh chùa tịch mịch. Có lẽ trong số hành khách không ít người có cảm giác như vừa đến một nơi thanh b́nh, mặc dù chỉ có thể là một thứ thanh b́nh giả trên một vùng đất chiến tranh. Đoạn đường vừa trải qua, ai cũng biết có quá nhiều nguy hiểm ŕnh rập. Đoạn đường sắp tới, nếu ai c̣n phải đi tiếp xa hơn nữa, lại c̣n ẩn tàng nhiều nguy hiểm hơn. Thời chiến là vậy, đạn lửa không có mắt, không phân biệt ai hiền, ai ngu, không phân biệt kẻ lành với người dữ.
Cho đến ngày ḥa b́nh, chùa vẫn vắng vẻ. Dù chiến tranh hay ḥa b́nh, sự sống vẫn là những đợt sóng thăng trầm giữa đại dương mộng tưởng. Vẻ khiêm tốn, cô liêu, tĩnh mịch của nhà chùa vẫn như là những cọng cỏ úa, chứng nhân cho tṛ đời dâu biển.
Mỗi khi t́nh cờ trên những chuyến xe Trung-Nam, hay Nam-Trung, trong thời chiến hay thời b́nh, cảm giác của tôi từ ấn tượng mong manh của ngôi chùa vẫn như vậy. Chợt cảm hứng, tôi viết tặng chùa hai câu đối, dù biết rằng nhà chùa sẽ ngần ngại, không sẵn sàng khắc lên cổng để cho khách thập phương thưởng thức:
Vượt Trường sơn ngh́n dặm Bắc Nam,
nh́n nắng đọng sân chùa,
khách có biết mấy lần dâu biển?
Ngắm sông bạc một màu chung thủy,
lắng chuông ngân đầu cỏ,
người không hay một thoáng Vô vi.
Đọc lại thơ của ḿnh, tôi lại chợt nhớ bài thơ thất ngôn, tứ tuyệt của nhà thơ Lư Thiệp, đời Đường:
终日昏昏醉梦间,
忽闻春尽强登山。
因过竹院逢僧话,
又得浮生半日闲。
Chung nhật hôn hôn túy mộng gian,
Hốt văn xuân tận cưỡng đăng sơn.
Nhân quá trúc viện phùng tăng thoại;
Hựu đắc phù sinh bán nhật nhàn.
Cảm hứng của nhà thơ vốn chớm dậy từ đời sống thường nhật, giữa những bận rộn tất bật; sống ở đó mà cảm giác như chập chờn trong cơn mộng say. Đến khi hay rằng mùa xuân đă hết, hay sắp hết, mới vội vă đi t́m một khoảng xanh nào đó của núi rừng, nghĩa là đi t́m một chút thanh nhàn, một chút buông xả cho tâm tư để bù đắp cho tháng ngày miệt mài vật lộn trên trường công danh, phú quư:
Mùi phú quư nhữ làng xa mă;
Bă vinh hoa lừa gă công khanh.
Giấc Nam kha khéo bất b́nh,
Bừng con mắt dậy thấy ḿnh tay không.
(Cung oán ngâm khúc)
Nhân đi qua viện trúc, t́nh cờ gặp nhà sư; ông đứng lại tṛ chuyện. Tṛ chuyện cho đến một lúc, nhà thơ bất chợt cảm thấy ḿnh đă có được một nửa ngày nhàn trong suốt cả cuộc đời ch́m nổi lênh đênh. Có một cơi gọi là phương ngoại như vậy, nơi mà những đạo sỹ, thiền gia ẩn dật, sống tiêu dao quên ngày tháng, quên hết những bận rộn tranh đua giữa trường đời náo nhiệt.
Khoảng một trăm năm sau, vào đời Tống, lại có một anh học tṛ, tên hiệu là Mạc Tử Sơn, mà con đường công danh nhiều khảm kha, nên thường t́m nơi núi rừng thanh vắng để quên đi nhọc nhằn thế sự. Một hôm, anh gặp một ngôi chùa nhỏ giữa rừng trúc xinh xinh. Cảnh trí thanh tĩnh, u nhă, dễ khiến khách trần phiền năo đa đoan cảm thấy tâm tư thư thới. Khách cùng sư đàm đạo. Nhưng bất hạnh, khách đối diện với một ông Ḥa thượng quê mùa, thô lỗ, tuy tỏ vẻ ưa thích đàm luận văn chương. Chuyện tṛ càng lúc càng trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Bởi vị Ḥa thượng sính văn thơ, nay may gặp khách làng văn, nên cứ khẩn khoản lưu khách. Không tiện từ chối đột ngột, thư sinh xoay chuyển ư nghĩ, bèn mượn bút mực nhà chùa, đề lên vách 4 câu thơ:
又得浮生半日閒,
忽聞春盡強登山。
因過竹院逢僧話,
終日昏昏醉夢間。
Niêm luật, cú pháp, kể cả lư tưởng của bài thơ, đều là sao chép lại của Lư Thiệp; nhưng thứ tự câu đă bị xáo trộn, làm cho ư nghĩa bài thơ trở thành trào phúng. Nhà thơ, trong cuộc phù sinh, nay được nửa ngày nhàn. Chợt nghe mùa xuân đă hết, nhà thơ vội vàng lên núi. Ấy là do nhàn hạ mà đi thưởng xuân, tuy là xuân đă muộn, chứ không phải do bận rộn mà khi hay xuân đă muộn bèn vội vă đi t́m một chút nhàn. Nhân đi ngang qua viện trúc, gặp nhà sư, cùng tṛ chuyện. Câu chuyện càng trở nên nhạt nhẽo, khiến cho một nửa ngày nhàn của thư sinh bỗng hóa ra một ngày đần độn như trong cơn mộng say. Lăo Ḥa thượng sính văn thơ tất nhiên vui mừng hớn hở, cảm tưởng ḿnh đang gặp hạnh vận nên nhà chùa lưu được bút tích với một bài thơ tuyệt hay. Ông không nghĩ rằng chính ḿnh đă khiến cho khách ban đầu đến chùa với tâm hồn thanh nhă, thư thái; nhưng sau một buổi nói chuyện với sư, tâm trí trở thành hôn ám. Trời, thiên nhiên, vẫn vậy, nhưng tính cách phù phiếm của con người làm cho thiên nhiên bị phơi ra giữa kịch đời sáo rỗng.
Khổng Tử một hôm nói với các môn đệ: “Ta không muốn nói ǵ cả.” Tử Cống nghe thế, liền hỏi: “Nếu Thầy không nói, chúng con biết truyền thuật cái ǵ?” Không Tử đáp: “Trời có nói ǵ đâu? Bốn mùa vẫn vận hành. Vạn vật vẫn sinh trưởng. Nào trời có nói ǵ đâu!” 天何言哉?四时行焉,百物生焉,天何言哉!
Trời không nói ǵ. Thiên nhiên luôn luôn trầm lặng, tịch mặc.
Thanh tĩnh, cô liêu, vẫn thường xuyên là nỗi kinh sợ cho nhiều người, nên người t́m cách chạy trốn; lánh ḿnh và quên lăng trong khoảnh khắc gần kề bằng thái độ ngông cuồng “đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu” 斷送一生唯有酒: đưa tiễn một đoạn đường đời khổ nhọc duy chỉ bằng say và quên trong chén rượu; hay trong những thú vui tiêu khiển phù phiếm khác. Một số rất ít t́m thấy lẽ huyền vi của sự sống ngay giữa ḷng thiên nhiên im lặng, tịch mặc vô ngôn. Trời đất không nói, ta cũng không nói: đói th́ ăn, khát th́ uống, mỏi th́ nằm:
居塵樂道且隨緣
飢則飧兮困則眠
家中有寶休尋覓
對境無心莫問禪
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
(Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú)
Ở đời vui đạo, hăy tùy duyên,
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi t́m kiếm.
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
(Lê Mạnh Thát dịch)
Sống như thiên nhiên đang vận hành; hè nóng th́ khoác áo mỏng, đông lạnh th́ đắp chăn bông.
Một thời, vào một đêm trăng sáng, ngày rằm tháng Ca-đề (Kārttika, khoảng tháng 10-11 Dương lịch), vua A-xà-thế (Ajātaśatru) nước Ma-kiệt-đà (Magadha), một bạo chúa giết cha để soán ngôi, một con người không hề biết dao động trước hành vi giết cha, bỗng nhiên lại rung động trước vẻ đẹp huyền hoặc, huyền diệu, của ánh trăng rằm, khiến ông nghĩ đến tư duy triết học, nghĩ đến vi hành t́m một triết gia hay đạo sỹ để luận đạo. Được một cận thần khuyến khích, ông nghiêm chỉnh voi, ngựa, với một đoàn quân ngự lâm hộ giá, rầm rộ kéo đến vườn xoài của y sỹ Kỳ-bà, nơi Phật đang trú ngụ cùng với đại chúng gồm 1250 Tỳ kheo. Nhưng khi vừa nhác thấy vườn xoài, nhà vua trẻ một thời hung tợn này chợt thấy trong ḷng run sợ, lông tóc dựng đứng. Ông sợ cái ǵ? Ông không sợ binh hùng tướng mạnh của địch, không hề chùn chân trước rừng gươm giáo; nhưng sợ hăi trước sự cô liêu, u tịch của khu vườn: “Tại sao giữa một số đông có đến 1250 người, mà lại không có một tiếng động, một tiếng tằng hắng, hay một tiếng ho?”
Như thế đấy, sự im lặng, tịch mặc vô ngôn, của thiên nhiên có thể làm run sợ những bạo chúa hay dũng tướng tràn đầy khí phách anh hùng; nhưng cơi tịch mặc vô ngôn ấy lắm khi lại là chỗ đáng buồn chán cho những tâm hồn bạc nhược, hèn yếu.
Cơi vô ngôn ấy là ǵ, ở đâu?
Đó là tiếng vọng trên âm vực tuyệt đối cao vút rung lên từ vực sâu thăm thẳm trong tận cùng đáy sâu của những tâm hồn thiết tha với sự sống, lẽ sống. Đó là sự im lặng sấm sét của Tu-bồ-đề, thản nhiên ngồi khâu áo trong hang đá, trong không gian rực sáng và ngập tràn tiếng hát thiên thần. Đó là tiếng rống sư tử của bậc Đại trí Văn-thù, khi khám phá cảnh giới tịch mặc vô ngôn trong căn nhà trống của Duy-ma-cật. Tiếng vọng ấy không thể nghe được bằng tai, cũng không thể suy được bằng lư. Cho nên, Xá-lợi-phất khi mới bước vào căn nhà trống th́ hỏi chỗ ngồi, trước khi nghe luận đạo th́ hỏi thức ăn. Người phàm dung thấy đó là chuyện cơm nước ngày thường, mà cũng là mối ưu tư khốn đốn của một kiếp người, khiến cho từng thế hệ tiếp nối của nhân sinh đổ từng giọt mồ hôi trên từng ngọn cỏ, thấm từng giọt máu trong từng hạt bụi; ngước lên th́ nh́n văn vẻ của ṿm trời, học cho biết đạo vật lư của vũ trụ; cúi xuống th́ quan sát h́nh thể nhấp nhô của đất, săn lùng tài nguyên để tích lũy sở hữu với ước mong nâng cao vị trí của ḿnh trong trời đất. Nhưng, trời có nói ǵ đâu?
Sao vậy?
Thưa, Thánh trí vốn vô tri, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn vô tướng, nhưng lại ứng hiện theo từng h́nh tướng đặc thù. Vần điệu chí cao th́ vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá. Thiện quyền bí ẩn th́ không toan tính, mà động tĩnh thảy tương ưng sự thể. Do vậy mà có thể cứu vớt tổng thể quần sinh, phơi bày vật để hoàn thành trách vụ. Lợi, được thấy khắp thiên hạ, với ta th́ vô vi; kẻ mê hoặc trông thấy mà cảm được ánh chiếu. Nhân đó gọi là Trí. Quán, ứng theo h́nh, th́ gọi là Thân; liếc nh́n thư tịch huyền vi, bèn bảo đó là Ngôn. Thấy sự biến động mà bảo đó là Quyền. Thế th́, chỗ chí cực của Đạo, há có thể bằng H́nh, Ngôn, Quyền, Trí, mà nói lên được cảnh vực thần diệu của nó sao?
(Tăng Duệ, Tựa kinh Duy-ma-cật)
何則夫聖智無知而萬品俱照。法身無象而殊形並應。至韻無言而玄籍彌布。冥權無謀而動與事會。故能統濟群方。開物成務。利見天下於我無為。而惑者覩感照。因謂之智。觀應形則謂之身。覿玄籍便謂之言。見變動而謂之權。夫道之極者豈可以形言權智而語其神域哉。
Lẽ thường, mỗi người tự có một hay những ẩn t́nh sâu kín không thể bày tỏ thành lời:
Nợ t́nh chưa trả cho ai,
Khối t́nh mang xuống tuyền đài chưa tan.
(Nguyễn Du, Kiều)
Khuất Nguyên, mà lời thơ của ông được Lư Bạch ca ngợi là cao vời và rực sáng như mặt trời, mặt trăng 屈平辭賦懸日月; thất chí v́ không được vua tin dùng, v́ bị bọn gian nịnh sàm tấu, vu họa, ôm mối u hận cô trung mà bàng hoàng trong chốn đầm lầy, ngâm hát bên sông suối, nhan sắc tiều tụy, h́nh dung khô héo. Đời vẩn đục nên không ai hiểu được tấm ḷng trong sáng của ông. Ông nói: mọi người đều đục, chỉ một ḿnh ông là trong. Mọi người đều say, chỉ một ḿnh ông là tỉnh. V́ vậy, ông bị đời hất hủi.
举世皆浊我独清,众人皆醉我独醒,是以见放!Lăo ngư phủ nhận ra ông là ai, bèn khuyên: “Thánh nhân không ngưng trệ nơi vật, mà có thể dời đổi theo đời. Người đời đều đục, sao không quậy thêm bùn, làm cho nổi sóng? Mọi người đều say, sao không ăn luôn cả bă hèm, nốc luôn cả rượu nhạt? Cần ǵ phải nghĩ cho sâu, cư xử cho cao?” Ông đáp: “… Tôi thà gieo ḿnh trong ḍng sông Tương, chôn thây trong bụng cá, chứ đâu có thể đem cái thân trắng sạch làu làu này mà để nhuốm bẩn bụi đời!” Rối sau đó, ông gieo ḿnh xuống sông Mịch la. Mấy ngh́n năm sau, người ta vẫn c̣n nghe đồng vọng tiếng hát của lăo ngư phủ trên sông:
沧浪之水清兮,
可以濯吾缨。
沧浪之水浊兮,
可以濯吾足。
(渔父)
Ḍng nước Thương lang mà trong chừ,
Ta rửa dải mũ.
Ḍng nước Thương lang mà đục chừ,
Ta rửa bàn chân.
Đó là chân lư mập mờ trong cơi tịch mặc vô ngôn. Đời vẫn có, từ ngh́n xưa, những điều không thể nói, mà mang đầy bi kịch. Bi kịch được tŕnh diễn thành màn kịch câm trên sân khấu huyền thoại. Đời vẩn đục, không ai hiểu được ḿnh, th́ cất cánh lên trời cao, không quay đầu nh́n lại. 世混浊而莫余知兮,吾方高驰而不顾。(涉江) Cỡi con thanh cù (rồng có sừng), thắng cỗ xe song mă bằng đôi bạch si (rồng không sừng), cùng dạo chơi trong vườn Dao với vua Thuấn. Buổi sáng, phát xuất từ đỉnh Cửu nghi sơn, chiều đă đến Huyện phố trên đỉnh Côn luân, dạo chơi với thần tiên bên cổng trời Linh tỏa mà quên cả trời chiều; ra lệnh cho Hy Ḥa, thần Mặt trời, ruổi xe chậm lại. Dưới sông, ông xuôi ḍng Cửu hà với Hà bá. Trên sườn núi, thấp thoáng bóng Thần nữ Sơn quỷ.
Trong truyền thống đạo Nho của Khổng Tử, không nói đến chuyện (yêu) quái, (bạo) lực, (bạo) loạn, (quỷ) thần 子不說怪力亂神; nhưng ở đây lại nói đến chuyện ly kỳ, quái dị; những chuyện ấy chuyển tải cái ǵ?
国无人莫我知兮,又何怀乎故都!
既莫足与为美政兮,吾将从彭咸之所居!
(离骚)
V́ người trong nước không ai hiểu được tâm sự của ông, tại sao phải hoài vọng về cố đô? Và ông nghĩ đến việc đi t́m theo dấu Bành Hàm. Trung thần, không can gián nổi những hành vi bạo ngược của quân vương, nên tự trầm ḿnh trong ḍng nước. Thế th́, huyền thoại ở đây không thuần túy là những câu chuyện các thần, mà đó là ngôn ngữ ẩn dụ để nói những điều không thể nói.
Những h́nh ảnh được vận dụng như là ẩn dụ ở đó không đơn giản là những hư cấu tùy theo trí tưởng tượng của nhà thơ. Chúng thực sự bắt nguồn từ huyền thoại, hay thần thoại, chứa đựng những ư tưởng, những tư duy, xúc cảm, tín ngưỡng tồn tại trong một truyền thống văn hóa.
Huyền thoại, mà người Hoa và người Nhật gọi là Thần thoại, là chuyện kể về các Thần linh. Chuyện tạo dựng trời đất; chuyện quan hệ giữa các Thần với nhau, giữa Thần và người; những chuyện t́nh yêu, thù hận, ganh tị, hung dữ, và nhiều điều khác, tốt cũng như xấu, có nơi loài người, cũng có nơi các Thần linh.
Một ít điển h́nh:
Trong thần thoại Hy lạp, người ta kể, Cronus con trai của thần Uranus (Trời) và bà Gaia (Đất), là vị Thần nhân cách hóa của Thời gian, và cũng là thời vụ. Ông được mẹ cho lưỡi hái, để rồi ông thiến cha là Uranus, mà những ḍng máu chảy tuôn ra thành các tạo vật khổng lồ, người Gigantes, được nói là tổ tiên của người khổng lồ Goliath trong Cựu Ước. Sau đó, Cronus lấy em gái ḿnh là Rhea làm vợ, rồi cai trị những người Titans. Ông nuốt tươi các con mới sinh của ḿnh, đề pḥng có thể có đứa sẽ lật đổ ông. Qua ư nghĩa thần thoại, người ta có thể t́m lại ấn tích tư duy, quan niệm của người cổ Hy lạp về thời gian, thời vụ, sự sinh trưởng và hủy diệt của các tạo vật. Tất nhiên, người Hy lạp cổ thời bấy giờ, trong một giới hạn ư nghĩa nào đó, tin tưởng những điều được kể là sự thực. Các nhà cổ sử học, bằng phương pháp phân tích thần thoại học, có thể lần ra dấu vết của một thời lịch sử cổ.
Mỗi dân tộc thường có chuyện kể về các Thần, kể về nguồn gốc của bộ tộc hay huyết thống của ḿnh, mà cũng là nguồn gốc của cả thế giới. Nét chung là các Thần này có năng lực siêu nhiên, quyền năng siêu việt sức mạnh không thể tưởng tượng, làm những điều mà loài người không thể làm được. Tuy dù các Thần có năng lực hay quyền lực siêu việt hay tuyệt đối được hiểu theo bất cứ ư nghĩa nào, th́ tất cả những điều ấy cũng chỉ giới hạn trong những sự việc mà trí tưởng của con người có thể nghĩ ra được.
Những câu chuyện như thế thường bắt nguồn từ kư ức tăm tối về một thời kỳ quá khứ mà khả năng tư duy không cụ thể hóa thành ngôn ngữ thường nhật được. Núi Tu-di trong kho truyện truyền kỳ Phật giáo có thể là kư ức từ một nền văn minh xa xưa đă mất, đó là văn minh Sumer trên vùng Lưỡng hà (Mesopotamia), phía nam Irak ngày nay, trước Tây lịch khoảng bốn ngh́n năm. Thiên đế Thích (Śakro devānam Indra) xuất hiện trong kư ức Thần thoại có thể là h́nh ảnh biểu trưng của các vua của người Sumeria cai trị vùng đất cần nhiều công tác thủy lợi. Cho nên Kinh điển thường đề cập đến tiền thân của Thiên đế Thích là người đă từng thực hiện nhiều công tŕnh xây dựng cầu đ̣; do công đức này mà được sinh làm Thiên đế Thích.
Truyền kỳ kể rằng trên cơi trời Tam thập tam (Tāvatiṃsa) có nhiều công viên, trong đó nổi tiếng là vườn Nanda, mà trong nhiều bản dịch Hán gọi là vương Nan-đà, hay vương Hoan hỷ. Danh từ này khiến liên hệ đến từ Eden trong Thánh kinh Do thái, hiểu nghĩa theo tiếng Hebrew.
Kinh điển cũng thường đề cập đến một vùng đất phương Bắc nào đó, gọi là Bắc Câu-lô châu. Đời sống dân chúng được mô tả trong đó khiến liên hệ đến những dân di mục thời tiền sử. Có lẽ là kư ức huyền thoại của tổ tiên người Aryan sau khi từ bỏ khu vực Lưỡng hà, hay sau khi nền văn minh Sumer sụp đổ, họ tiến dần về phía nam, rồi vượt qua dăy Thông lĩnh (Pamir) để định cư trên lưu vực Ngũ hà.
Những chuyện truyền kỳ hay huyền thoại được kể khá nhiều trong Kinh điển Phật giáo cũng khiến người ta liên hệ đến các truyện Thần thoại Hy lạp. Những trận chiến giữa Thiên Đế Thích với thủ lĩnh A-tu-la để giành lănh địa trên đỉnh Tu-di, trong một phạm vi nào đó, cũng mang nhiều nét tương đồng với cuộc tranh giành quyền lực cai trị Titan giữa Uranus và Kronos. Điểm tương đồng nổi bật nhất là giữa Thiên đế Śakra ngự trị trên đỉnh Tu-di và Zeus, chúa tể các thiên thần ngự trị trên đỉnh Olimpia.
Huyền thoại hay Thần thoại như vậy là những truyện kư – không hẳn là truyền kỳ – được kể bằng ngôn ngữ mà đối với nhiều người thật là huyễn hoặc, hoang đường. Nhưng với các nhà Thần thoại học, chúng một phần, hay đại bộ phận, là những kư ức lịch sử bị bao trùm trong lớp bụi mù hay sương khói của thời gian.Trong nhiều trường hợp, chính kư ức thần thoại hay huyền thoại ấy phản chiếu trung thực hơn những cái mà ngày nay ta thường nghĩ là sự thực lịch sử; phản chiếu quan niệm, đồng thời cũng là hiện thực, về huyết thống, về chủng tộc, về những ràng buộc gia đ́nh, bố mẹ và con cái, anh chị em, về mặt xă hội cũng như về mặt di truyền. Trong kho truyện cổ Viêt Nam, ta có truyện trăm trứng, truyện Âu Cơ và Lạc Long Quân, mà vua Tự Đức bút phê trong Khâm định Việt sử là hoang đường, không thể tin. Tuy nhiên, khó có thể t́m thấy câu truyện kể nào phản ánh trung thực hơn quan niệm của tổ tiên người Việt về mối quan hệ huyết thống, chủng tộc của các cư dân trong cùng một không gian địa lư.
Phải chăng, những điều được nói trên đây là ư tưởng dẫn đạo để chúng ta gọi những điều kể về Duy-ma-cật là “Huyền thoại Duy-ma-cật”, những tường thuật về ngôn ngữ và hành vi đại bộ phận mang dấu ấn siêu nhiên. Kinh có tên là Duy-ma-cật sở thuyết, những điều được thuyết bởi Duy-ma-cật, cũng c̣n có tên là Bất tư nghị giải thoát, v́ ngôn ngữ và hành vi của Duy-ma-cật được ghi chép trong đó là những điều không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ luận lư, cũng không thể tư duy, nhận thức, bằng tập quán tư duy của người thường. Từ một con người mà đời sống thường nhật không có ǵ khác với mọi người đương thời hay trong tất cả thời đại, cùng chịu chi phối bởi quy luật biến thiên, sinh thành và hủy diệt của thiên nhiên, tạo vật như tất cả mọi sinh vật trên đời; nhưng, từ con người ấy lại xuất phát những hành vi không thể phán đoán trên căn bản hiện thực. Trong một khoảng không gian chật hẹp, dọc ngang chỉ chừng mười bộ, lại có thể dung chứa ba ngh́n khách, đến tham quan từ khắp mười phương thế giới. Làm sao ta có thể chứng minh và xác định một cách hiện thực rằng có vô số thế giới trong đó có vô số sinh vật tồn tại ngoài không gian vũ trụ? H́nh ảnh này có thể là thực tế, mà cũng có thể chỉ là ẩn dụ. Dù hiện thực hay ẩn dụ, với những ai mà tâm trí và h́nh hài không c̣n bị buộc chặt vào tập quán thường nhật của đói lạnh, của áo cơm; bị khuất phục với những định chế xă hội, quan hệ nhân sinh; bị khống chế bởi quy luật tồn tại; không bị hạn chế bởi không gian và thời gian hữu hạn; với những người ấy, đi, đứng, nằm ngồi, đều là thể hiện của giải thoát bất tư nghị, phát khởi từ thần thông du hư tam muội. Đời sống, và tồn tại, trong từng sát na và trong từng nguyên tử nhỏ bé, thường trực là cảnh giới huyền vi, bất tư nghị, mà với tâm tư hữu hạn, bị ràng buộc lẩn quẩn trong nói năng và suy nghĩ theo ước lệ của luận lư, của lư tính, th́ đấy tất nhiên là những sự huyễn hoặc, những thần thoại hoang đường.
Khi một nhà thơ nghe tấu nhạc, nghe chuỗi âm thành đuổi nhau qua những ngón tay lướt nhanh trên phím đàn, ông chợt cảm giác cả một không gian đang rạn vỡ. Cả một ṿm mái bằng thủy tinh chợt vỡ vụn rơi xuống, tạo thành chùm âm thanh rạn vỡ. H́nh ảnh ấy h́nh như vẫn chưa phản ánh trung thực âm thanh mà ông nghe được từ một giai điệu gần như tuyệt đối không lời, v́ không thể có lời ǵ đủ để diễn tả. Nhà thơ cảm giác như ḿnh đang nghe tiếng ngọc rạn vỡ, tiếng phượng hoàng kêu (hay hót) trên đỉnh Côn luân cao ngất; âm thanh tṛn như những giọt sương rơi trên cánh hoa phù dung mong manh, như âm thanh từ tiếng cười nụ của đóa lan thơm ngát. Âm hưởng lạnh buốt như hơi lạnh đang tan loăng trong ánh sáng trước mười hai cổng thành. Hai mươi ba sợi tơ đàn không hầu làm rung động cả đức Tử hoàng, đức Thượng đế ngự trên khung trên trời tím cao tột cùng và bao la vô tận. Rồi ông cảm thấy, trong khoảng không gian bao la kia, trong suốt như một ṿm tủy tinh xanh biếc, vô hạn, vô cùng tận, mà thần thoại về tạo thiên lập địa nói rằng có nhiều chỗ nguyên thủy bị thủng nay đă được bà Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá lại; trong khoảng không gian mà bà Nữ Oa luyện đá vá Trời ấy, đá vỡ, trời kinh, đọng mưa thu:
崑山玉碎鳳凰叫,芙蓉泣露香蘭笑。
十二門前融冷光,二十三絲動紫皇。
女媧煉石補天處,石破天驚逗秋雨。
(李賀,李憑箜篌引)
Cô sơn ngọc toái phượng hoàng khiếu;
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu;
Thập nhị môn tiền dung lănh quang,
Nhị thập tam ty động Tử Hoàng.
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ,
Thạch phá thiên kinh, đậu tu vũ.
(Lư Hạ, Lư Bằng không hầu dẫn)
Đó rơ ràng là một thứ ngôn ngữ huyền thoại. Song le, không c̣n có ngôn ngữ nào sinh động hơn đủ để diễn tả những rung động từ thâm sâu của tâm tư nhà thơ đang nghe tấu nhạc.
Vị Bồ tát ấy, sống giữa mọi người, cũng gánh chịu thân phận như mọi sinh vật; cũng lăn lóc trong trường đời để phấn đấu cho sự sống và lẽ sống, trên sân khấu kịch đời nhộn nhịp; người ta có thể bắt gặp ông trong chốn quan trường nơi mà tầng lớp thống trị thường trực đấu tranh quyền lực với nhau bằng bạo lực và bằng gian dối; gặp ông trong các giảng đường, học đường nơi mà các thế hệ trao truyền cho nhau và đón nhận kiến thức tích lũy, có cái thiện mà cũng có nhiều cái bất thiện; người ta cũng gặp ông trong chỗ hang cùng, ngơ hẻm, trong chỗ bùn śnh, lầy lội, dưới đáy của xă hội, nơi mà nhiều lớp người đang sống vật vờ trong cảnh tối tăm, cùng khốn. Ông đến những chỗ đó, bằng phép lạ nào đó, mà những bạo chúa trở thành hiền minh, những kẻ khốn cùng trở thành gia chủ hạnh phúc. Đấy là những sự nghiệp được thực hiện bằng thần thông du hư tam muội, mà trong con mắt phàm phu th́ chẳng có ǵ là vĩ đại. Nhưng trong cách nh́n của bậc trí, đó là thần thông diệu dụng c̣n ly kỳ hơn cả việc nhét nguyên ḥn núi Tu-di vào một hạt cải; rót tất cả khối nước từ bốn đại dương vào một lỗ rốn; ôm cả một thế giới Ngân hà chu du khắp vũ trụ.
Vậy th́, Huyền thoại Duy-ma-cật không phải là truyện thần kỳ sáng thế, không phải là kư ức mập mờ mộng tưởng về quá khứ nhân loại, hay là sự thăng hoa từ những ức chế trong đời thường. Huyền thoại Duy-ma-cật là chuyện thường ngày của mọi sinh linh và tự biết đang đổi thay trong từng khoảnh khắc, nh́n thấy vô biên trong hạt cát.
Haṃsādiccapathe yanti,
ākāse yanti iddhiyā;
nīyanti dhīrā lokamhā,
jetvā māraṃ savāhiniṃ.
Dhp. 175
Thiên nga bay theo đường mặt trời,
Người có thần thông bay trong hư không;
Bậc trí dẫn ra khỏi thế gian,
Sau khi chiến thắng Ma quân.

T.S.