TRIẾT HỌC THẾ THÂN
VỀ TỰ TRI & BÀN THÊM VỀ CƠ CẤU TỰ TRI
Lê Mạnh Thát
Chúng ta thấy rằng sau khi t́m ra thuyết lan truyền nội tại, Thế Thân đă
tiếp tục tái khảo sát nhiều vấn đề khác nhau xoay quanh nhiều thuyết tri
nhận đă được rất nhiều trường phái của thời ông đề ra. Những vấn đề này
h́nh như đă không được giải quyết; và trong khi khảo sát chúng, ông đă
nhận ra rằng nếu muốn giải quyết th́ phải đưa ra một phương pháp hoàn toàn
mới mà khái niệm cơ bản của nó chính là khái niệm về sự tự tri. Khái niệm
này bao gồm khẳng định mọi tri nhận phải là sự tự tri. Một khi đă khẳng
định như thế, rơ ràng chủ trương “đối với một người nào đó có khả năng tri
nhận, anh ta tri nhận được cái ǵ đó màu xanh chứ không phải ‘nó là màu
xanh’; về đối tượng th́ anh ta tri nhận nó chứ không phải tri nhận các
thuộc tính của nó” do A Tỳ Đạt Ma Thức Thân Luận (Abhidharmavijñānakāya)
khởi xướng và sau đó được Trần Na khai triển là
không thể chấp nhận được( Abhidharmavijñānakāyapādaśāstra, Taishō 1539, p.
559b27-c28:
有 六 識 身。 謂 眼 識 耳 鼻 舌 身 意 識。 眼 識 唯 能 了 别 青
色。 不 能 了 别 此 是 青 色。 意 識 亦 能 了 别 青 色。 乃 至 未 能 了 别 其
名。 不 能 了 别 此 是 青 色。 若 能 了 别 其 名。 爾 時 亦 能 了 别 青 色。 亦
能 了 别 此 是 青 色。 如 青 色 黄 赤 白 等 色 亦 爾。 耳 識 唯 能 了 别 聲。
不 能 了 别 此 是 聲。 意 識 亦 能 了 别 聲。 乃 至 未 能 了 别 其 名。不 能 了
别 此 是 聲。若 能 了 别 其 名。爾 時 亦 能 了 别 聲。亦 能 了 别 此 是 聲。
鼻 識 唯 能 了 别 香。 不 能 了 别 此 是 香。 意 識 亦 能 了 别 香。 乃 至 未
能 了 别 其 名。不 能 了 别 此 是 香。若 能 了 别 其 名。爾 時 亦 能 了 别 香
。亦 能 了 别 此 是 香。舌 識 唯 能 了 别 味。 不 能 了 别 此 是 味。 意 識 亦
能 了 别 味。 乃 至 未 能 了 别 其 名。不 能 了 别 此 是 味。若 能 了 别 其 名
。爾 時 亦 能 了 别 味。亦 能 了 别 此 是 味。身 識 唯 能 了 别 觸。 不 能 了
别 此 是 觸。 意 識 亦 能 了 别 觸。 乃 至 未 能 了 别 其 名。不 能 了 别 此 是
觸。若 能 了 别 其 名。爾 時 亦 能 了 别 觸。亦 能 了 别 此 是 觸。意 識 亦 能
了 别 諸 法。謂 或 執 為 我。或 執 我 所。 或 執 為 斷 或 執 為 常。 或 撥 無
因。 或 撥 無 作。 或 復 損 減。 或 執 為 尊。 或 執 為 勝。 或 執 為 。 。 或
執 第 一。 或 執 清 淨。 或 執 解 脫。 或 執 出 離。 若 惑 若 疑。 若 猶 豫。
若 貪 若 瞋。 若 慢 若 癡。 若 麤 若 苦。 若 障 若 靜。 若 妙 若 離。 若 如 病
若 如 癰。 若 如 箭 若 惱 害。 若 無 常 若 苦 若 空 若 無 我。 若 於 因 謂 因
謂 集 謂 生 謂 緣。 若 於 滅 謂 滅 謂 靜 謂 妙 謂 離。 若 於 道 謂 道 謂 如 謂
行 謂 出。 若 有 因 若 有 起 若 有 是 處。 若 有 是 事。 若 如 理 所 引 了 别。
若 不 如 理 所 引 了 别。 若 非 如 理 所 引。 非 不 如 理 所 引 了 别。
cf. Dignāga, Pramāṇasamuccaya I, p.14b2-4.).
Bởi v́ khi một tri nhận được định nghĩa là sự tự tri, nó không những
biết được cái ǵ đó màu xanh mà c̣n biết rằng nó biết được cái đó là xanh.
Như vậy, khái niệm tự tri hàm chứa yếu tính của ngôn ngữ như một trong
những thành phần của nó, bởi v́ như Trần Đức Thảo đă phát biểu, ngôn ngữ
là môi trường trực tiếp của ư thức ( Trần Đức Thảo, “Du geste de l’index à
l’image typique”, La Pensée 147 (1969): 3-46 & 148 (1969): 71-111 & 149
(1970): 93-106: “Le mouvement de l’indication comme forme originaire de la
conscience”, La Pensée 128 (1966): 3-24: “La conscience doit être étudiée
tout d’abord dans sa “réalité immédiate”: le language, entendu
naturellement en son sens général, comme language gestuel et language
verbal.”).
Thật vậy, chúng ta sẽ thấy Thế Thân không chỉ xem ngôn ngữ là môi
trường trực tiếp của ư thức mà c̣n là phương tiện độc nhất cho ư thức hoạt
động. V́ vậy, sau khi bác bỏ thuyết tri nhận của Thức Thân Luận, ông đă
định nghĩa lại tri nhận là “một nhận thức sinh khởi chỉ từ đối tượng mà nó
được đặt tên bởi đối tượng đó”. Tri nhận như vậy được định nghĩa bằng ngôn
ngữ mà nó được diễn tả. Do sự kiện này, Trần Na đă công kích nặng nề điều
trên như đă nói. Dĩ nhiên, một sự công kích như thế không hề gây ngạc
nhiên bởi v́ đó là điều chúng ta chờ đợi. Định nghĩa mới của Thế Thân cho
thấy một quan niệm triệt để hoàn toàn độc lập với mọi truyền thống định
sẵn được biết đến vào thời ông, đặc biệt là truyền thống của Thức Thân
Luận đầy thẩm quyền và ảnh hưởng mà quan niệm của nó đă được Trần Na khai
triển và bảo vệ trong tác phẩm Pramāṇasamuccaya nổi tiếng của ông dưới cái
bóng của luận thư quan trọng nhất của Thế Thân là Vādavidhi. Và dường như
những người cùng thời cũng
như sau ông đều thất bại trong việc đánh giá đúng quan niệm hoàn toàn mới
với một nội dung cơ bản như thế của ông như những phê phán của Trần Na cho
thấy.
Hiển nhiên, điều mới mẻ chủ chốt của định nghĩa trên nằm ở việc nó đă
nối kết tri nhận với ngôn ngữ qua đó nó được diễn tả. Trần Na đă nhận ra
chính xác điều này và ông đă mạnh mẽ chống đối và chỉ trích, bởi lẽ “đối
tượng của năm loại thức thân th́ không thể diễn tả” ( Dignāga,
Pramāṇasamuccaya I: 14b5-6.). Thật vậy, như chúng ta đă nói, mặc dù Thế
Thân chưa bao giờ công nhiên chia xẻ quan niệm của Thức Thân Luận và v́
thế chưa bao giờ đề cập đến trong Câu Xá Luận nhưng khái niệm “đối tượng
tri nhận th́ không thể diễn tả”, vốn được định nghĩa là “nằm ngoài cấu
trúc ngôn ngữ” (vô phân biệt), vẫn thật sự được nhắc đến trong tác phẩm
của ông với một cải đổi được công bố nào đó. V́ thế, ông công nhận rằng
“năm loại thức thân nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ” chừng nào nó nằm ngoài
“cấu trúc ngôn ngữ” của hoạt động của tâm (kế đạc) và sự nhớ lại (tùy
niệm), chứ không nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ của riêng chúng (tự tánh),
bởi v́ chúng luôn luôn có kèm theo cái được gọi là “ư ngôn của tầm và tứ”
( Abhidharmakośa I ad 33: yadi pañca vijñānakāyāḥ savitarkāḥ
savicārāḥ katham avikalpakā ity
ucyante/nirūpanānusmaraṇavikalpenāvikalpakāḥ/
trividhaḥ kila vikalpaḥ/ svabhāvābhinirūpanānusmaraṇavikalpaḥ/ tad eṣaṃ
svabhāvavikalpo’sti/ netarau/ tasmād avikalpakā ity ucyante/ yathā
ekapādako’svo’pādaka iti/ tatra svabhāvavikalpo vitarkaḥ/sa caitteṣu
paścān
nirdekṣyate/ itarau punaḥ kiṃ svabhāvau/ yathākramaṃ tau prajñā mānasī
vyagrā smṛtiḥ sarvaiva mānasī//manovijñānasamprayuktā prajñā mānasīty
ucyate/ asamāhitā vyagrety ucyate/ sāhy abhinirūpanāvikalpaḥ/ mānasy eva
sarvā smṛtiḥ samāhitā cāsamāhitā cānusmaraṇavikalpaḥ/cf. Abhidharmakośa I
ad 32.).
Kết quả, ta có thể nói rằng quan niệm về tính bất khả thuyết của đối tượng
tri nhận đă gây nghi ngờ nghiêm trọng ngay cả trong Câu Xá Luận mặc dù có
sự kiện rằng không có trần thuật nào rơ ràng về ư nghĩa chính xác mà từ
ngữ “cấu trúc ngôn ngữ” và tương tự ám chỉ, như đă thấy qua thảo luận của
Thế Thân về chúng ( Abhidharmakośa II ad 33a. Trong đoạn này, Thế Thân
biết rằng tầm và tứ ít ra đều là lực của ngôn ngữ (vākṣamskāra). Tuy
nhiên, măi đến luận thư Pañcaskandhaka ông mới cố gắng định nghĩa rơ hai
từ này có nghĩa chính
xác là ǵ. Xem Pañcaskandhaka, Taishō 1612 p 849b27-29: 云 何 為 尋。 謂 能
尋 求 意 言 分 别 思 慧 差 别 令 心 麤 為 性。 云 何 為 伺。 謂 能 伺 察 意 言
分 别 思 慧 差 别 令 心 細 為 性。 ). Quan niệm mới mẻ được Thế Thân đề ra ở trên đánh
dấu một sự tách ly từ gốc rễ đối với các quan niệm phổ biến vào thời ông.
V́ vậy, chẳng có ǵ ngạc nhiên khi Trần Na phải dành trọn cả một phần
trong Pramāṇasamuccaya của ông để đánh giá.Như đă nói, quan niệm mới này
được đề ra trong một cố gắng giải quyết nhiều
khó khăn khác nhau xuất phát từ vấn đề tri nhận và cuối cùng đă dẫn đến
giả định về khái niệm tự tri. Điều khá chắc chắn là nếu tri nhận được định
nghĩa qua sự tự tri như là quan hệ đầu tiên của nó th́ điều tất yếu là tri
nhận đó phải được chỉ thị bởi tên của đối tượng mà từ đó nó sinh khởi. V́
thế, nói rằng tôi thấy th́ chưa đủ mà phải nói thêm là tôi thấy cái ǵ đó.
Không có cái gọi là tri nhận thuần túy, tức loại tri nhận không được đặt
tên bởi đối tượng mà nó tri nhận, mà luôn luôn là tri nhận về cái ǵ đó.
Lư do tại sao không có tri nhận thuần túy mà luôn luôn là tri nhận cái ǵ
đó, khi tri nhận được định nghĩa qua sự tự tri, nằm ở sự kiện tự tri trong
trường hợp này chỉ xảy ra khi tri nhận xảy ra. Và nếu tri nhận không được
chỉ thị bởi tên của đối tượng của nó để phân biệt nó với sự tự tri th́ cả
hai có thể bị trộn lẫn hoàn toàn để trở thành một đơn vị duy nhất và công
nhiên đồng nhất tri nhận với tự tri, một sự đồng nhất không muốn có. Hơn
nữa, một điều thông thường là tri nhận có thể được diễn tả theo một ngôn
ngữ đă cho. Nếu tôi tri nhận một con chó từ trong nhà chạy ra bên tay trái
tôi th́ chắc chắn tôi có thể nói như thế. Và chỉ nói như thế th́ người
khác mới có thể biết rằng tôi thật sự thấy con chó từ trong nhà chạy ra.
V́ thế, thật không may nếu đề ra một thuyết thuộc loại Trần Na đề nghị bởi
v́ khi đó một điều thông thường như thế sẽ bị bỏ qua và không được để ư
đến để nhường chỗ cho một khái niệm được định sẵn nào đó về những ǵ tri
nhận phải là.
Nhưng v́ tri nhận được định nghĩa qua ngôn ngữ mà nó được diễn tả, cho
nên sự tự tri cũng phải được định nghĩa qua ngôn ngữ đó. V́ tự tri vốn là
một phần của tiến tŕnh tri nhận. Như vậy, toàn bộ tổ hợp tri nhận và tự
tri hoàn toàn dựa vào ngôn ngữ để hoạt động, một kết luận đă rất hiển
nhiên trong Câu Xá Luận, như đă thấy. Trong đó, Thế Thân phát biểu công
khai cả năm thức thân đều không nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ v́ chúng luôn
luôn có kèm theo “lời lẽ của ư về sự t́m ṭi và xét đoán”. Tuy nhiên, măi
đến khi Vādavidhi xuất hiện th́ sự nối
kết tri nhận với ngôn ngữ mới được tŕnh bày suông sẻ, và đợi đến khi Nhị
Thập Tụng ra đời th́ khái niệm tự tri mới được xem xét và bàn bạc nghiêm
túc. Thế nhưng, việc sớm nhận ra tác dụng rất quan trọng của ngôn ngữ
trong bất cứ hoạt động nào được cho của tâm cho thấy thuyết mô tả của Thế
Thân đă xuất hiện như thế nào. Và thuyết này lại sinh khởi luận lư của ông
và cuối cùng thúc đẩy ông tái khảo sát vấn đề tri nhận với khám phá đạt
được là khái niệm tự tri. Từ những ǵ đă nói, mặc dù khái niệm này quan
trọng nhưng nó lại là một sự thật phổ biến rất b́nh thường mà mọi người
đều xem thường, đó là nếu chúng ta nhận biết cái ǵ đó th́ tiến tŕnh nhận
biết này xảy ra trong đầu chúng ta chứ không phải nơi nào khác. Như vậy,
để biết cái ǵ đó, ta phải cùng lúc biết rằng ta biết cái đó. V́ thế, nhận
thức ta có về thế giới ngoại tại và mọi sự vật khác xuất phát từ sự tự
nhận biết của chúng ta về những thông tin được cung cấp cho chúng ta qua
các tri giác và trải qua tiến tŕnh xử lư của khả năng tri nhận của chúng
ta.
V́ vậy, để cho bất cứ cái ǵ hiện hữu trên cuộc đời này được biết đến
th́ nó cần được phiên dịch thành các thông tin; và những thông tin này có
thể được xử lư bởi khả năng nhận biết của chính chúng ta. Như vậy, đối
tượng được định nghĩa qua các thông tin nó cung cấp cho chúng ta và những
thông tin này được mă hóa theo một ngôn ngữ đă cho dành cho sự hiểu biết
của chúng ta. Một khi đă đi đến một kết luận như thế, thật tự nhiên cho
Thế Thân để đưa ra luận đề “bất kỳ cái ǵ hiện hữu chỉ là cái khiến ta
biết; đối tượng của nó không hiện hữu v́ nó là sự tự tri, giống hệt như sự
nh́n thấy những sợi lông và mặt trăng, v.v., của
người mắc bệnh bạch chướng nhăn.” Thật vậy, v́ bất cứ những ǵ ta biết về
một đối tượng cũng là bất cứ thông tin nào nó cho chúng ta và thông tin
này, đến lượt nó, sẽ định nghĩa đối tượng đó là ǵ. Như vậy, “bất cứ cái
ǵ hiện hữu thật sự chỉ là cái khiến ta biết”. Thế nhưng, nếu đă như vậy
th́ điều tất yếu là đối tượng được định nghĩa bởi thông tin được cung cấp
cho chúng ta bởi bất cứ cái ǵ hiện hữu ở đó chắc chắn sẽ không hiện hữu
giống như cách hiện hữu của bất cứ cái ǵ ở đó, bởi v́ đối tượng được định
nghĩa như thế chỉ là sự tri nhận ta có
về thông tin được cho chúng ta. Và v́ nó chỉ là một tri nhận nên nó không
hiện hữu, bởi v́ theo định nghĩa th́ tri nhận là tự tri, và tự tri là bất
cứ cái ǵ giúp ta biết về sự có mặt của cái ǵ đó. Tóm lại, tự thân nó vốn
là một dạng thông tin không chỉ cho chính nó mà cho bất cứ cái ǵ nó được
dự định chỉ đến. V́ thế, cần phải lưu ư rằng chữ “đối tượng” trong phát
biểu dẫn trên của Thế Thân chuyển tải trong ngôn ngữ gốc của nó không chỉ
ư hàm ư về “đối tượng” mà c̣n cả hàm ư về “nghĩa”. ( Viṃśatikā ad I. Hăy
lưu ư rằng hai nghĩa này chắc hẳn đă rất thông dụng vào thời Thế Thân, như
được minh chứng trong Amarasiṃha, Nāmalingānusasana, ed. Pandut Sivadatta,
Bombay: Satyabhāmābāi Pāndurang, 1944: 331 &412: II. 9.90 và III. 3. 86.)
Như vậy, về mặt ngôn ngữ học đối tượng được định nghĩa qua nghĩa của nó.
Bất
cứ cái ǵ được ta nói đến như một đối tượng, nó phải hàm chứa một nghĩa
nào
đó để ta có thể hiểu nó. V́ lẽ nó được đồng nhất hoàn toàn với nghĩa của
nó.
Nói cách khác, khi một đối tượng được định nghĩa bằng thông tin ta biết về
nó,
một đối tượng như thế chắc chắn chỉ là một dạng của tự tri, v́ nó chỉ là
một
phương tiện giúp ta hướng đến cái ǵ đó khác hơn chính nó, một cái ǵ đó ở
bên
ngoài mà ta muốn biết hay rốt cùng cũng sẽ biết. Chẳng hạn như khi ta nói
về
một ngôi nhà, chữ “nhà” không chỉ làm nền tảng chỉ thị cái ǵ đó bên ngoài
mà
chúng ta t́nh cờ gặp phải để đồng ư đó là một ngôi nhà, mà nó c̣n làm một
kênh truyền đạt thông tin giúp định nghĩa cái đó. Với hai chức năng này,
cái
được chúng ta nói đến như một ngôi nhà chắc chắn không hiện hữu, hoặc ít
ra
không hiện hữu theo cách hiện hữu của cái ǵ đó ở bên ngoài, cái mà chữ
này
được dùng để chỉ đến, bởi lư do đơn giản là chữ “nhà” chỉ là một mô tả về
cái ǵ
đó ở đó. Cần lưu ư rằng mô tả được định nghĩa là một “biểu tượng bất toàn” có thể
được
thay bằng những diễn tả thích hợp khác. Là một mô tả, từ ngữ chỉ có tác
dụng
truyền đạt thông tin để cái ǵ đó bên ngoài có thể được định nghĩa và tri
nhận
đúng. V́ vậy, những ǵ chúng ta biết về một đối tượng chỉ là những thông
tin
này, những thông tin có khi chỉ kết lại thành một từ và có khi nhiều hơn.
Theo ư
nghĩa này, ta có thể nói rằng một đối tượng chỉ là thông tin ta biết về
nó. Và
phát biểu này được diễn tả rơ ràng bởi khả năng siêu việt của Phạn ngữ
trong
chỉ một từ: artha. Đây là từ đă chuyển tải, như đă nói, hai ư nghĩa là
“vật” và
“nghĩa” trong suốt lịch sử. Với hàm nghĩa kép này, điều rất hiển nhiên là
theo
quan điểm của Thế Thân, một đối tượng, khi được định nghĩa như thế, sẽ
không
hiện hữu. Nó không hiện hữu, v́ nó chỉ là thông tin được dự liệu cho sự tự
tri
nhận của chúng ta. Vấn đề bây giờ là tại sao khi được định nghĩa như thế
nó lại
không hiện hữu, và làm thế nào một t́nh huống như thế lại xảy ra.
Chúng ta đă thấy rằng Nhị Thập Tụng là tác phẩm đầu tiên của Thế Thân công
bố luận đề trên, nói rằng đối tượng không hiện hữu khi được định nghĩa là
thông
tin. Vậy th́ thật tự nhiên cho chúng ta khi khảo cứu tác phẩm này để xem
nó có
cung cấp bất cứ xác minh nào về một quan niệm như thế không. Ở chương
cuối, chúng ta đă thấy bằng cách nào Nhị Thập Tụng cố thực hiện chính xác
công việc này bằng cách chứng minh rằng cái ta biết chỉ là những thông tin
khiến chúng ta biết chứ không phải tự thân các đối tượng. Nó chỉ rơ rằng
(1) đối
tượng ta biết có thể không hiện hữu, thí dụ những ǵ ta thấy trong giấc
mơ, và
(2) v́ mọi vật liên tục thay đổi, đối tượng vốn cũng thay đổi như thế, có
thể
không bao giờ được biết đến ngoại trừ chỉ như một h́nh ảnh, tức chỉ là
thông tin
mà nó để lại đàng sau. Với hai lư do chính này, Nhị Thập Tụng đi đến kết
luận
rằng “bất cứ cái ǵ hiện hữu chỉ là cái khiến ta biết”, như đă nói. Vậy
th́ rơ ràng
nó đă không chứng minh được quan niệm của nó ở mức ta mong muốn, nhất là
xét về thuyết mô tả được Thế Thân tŕnh bày trong Câu Xá Luận. Thật vậy, trong đó khi nối kết với vấn đề hiện hữu của quá khứ và vị lai,
Thế
Thân đă nhấn mạnh rằng “một đối tượng của thức có thể không là ǵ cả mà
chỉ
là một tên gọi, và đối tượng mà nó ám chỉ không cần phải hiện hữu”, (
Abhidharmakośa V ad 27.) để có thể giải thích tại sao ta có thể sẵn sàng
biết
và hiểu cái ǵ đó trong quá khứ mà nó không c̣n hiện hữu theo định nghĩa.
Như
vậy, chính nhờ vào các tên gọi mà sự vật có thể được biết và được ghi
nhận.
Nhận xét này đóng một vai tṛ chủ chốt trong sự phát triển thuyết mô tả
của
Thế Thân trong Câu Xá Luận, như đă được minh chứng đầy đủ trong thảo luận
của chúng ta ở trên. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là nó không được đưa vào trong
Nhị
Thập Tụng. Kết quả, nỗ lực chứng minh luận đề “bất cứ cái ǵ hiện hữu chỉ
là
những ǵ khiến ta biết” đánh mất phần nào hiệu quả của nó. Và sự mất mát
này
phải đợi đến khi Tam Thập Tụng ra đời mới có thể bù đắp.
Tam Thập Tụng mở đầu bằng câu nói lừng danh “sự mô tả về ngă và pháp, vốn
có tác dụng theo nhiều cách, đều dựa vào sự chuyển biến của thức”, và câu
nói
này cuối cùng đă dẫn đến kết luận nổi tiếng không kém là “sự chuyển biến
của
thức là cấu trúc ngôn ngữ qua đó những ǵ được thiết lập bằng ngôn ngữ
không
hiện hữu, v́ vậy bất cứ cái ǵ hiện hữu đều chỉ là cái khiến ta biết.”
(Triṃśikā
ad I & 17.) Toàn bộ đời sống của một thức, bao gồm cả sự tự tri, v́ thế
hoàn
toàn được quyết định bởi điều mà Thế Thân gọi là “cấu trúc ngôn ngữ”.
(
Siddhasena Divākara, Sammatitarkaprakaraṇa of Siddhasena Divākara
together with Abhayadevasūri’s Vyākhyā, ed. Sukhalal Samghavi & Becaradāsa
Dosi, Ahmedabad: Gujarātapurātattvamandiragranthāvalī, 1928: 533;
śrotrādivṛttir avikalpiketi vindhyavāsipratyakṣalakṣaṇam anevaiva
nirastam/.
Yogasūtra I. 9: śabdajñānānupātī vastuśūnyo vikalpaḥ, được b́nh giải bởi
Vyāsa, Pātañjala-Yogadarśanam, ed. Ram Shankar Bhattacharya, Vārānasī:
Bhāratīya Vidyā Prakāsana, 1963: 13-14.Karl H. Potter, The Encyclopedia of Indian Philosophy I, Delhi: Motilal
Banarsidas, 1970: 17.)
Vậy, “cấu trúc ngôn ngữ” là ǵ? Để trả lời câu hỏi này, thật không may
là
chúng ta không có phát biểu nào rơ ràng từ chính Thế Thân, sau khi đă t́m
khắp các tác phẩm c̣n giữ được của ông. Dường như những từ như “cấu trúc
ngôn ngữ” đă được sử dụng rộng răi và dễ hiểu vào thời ông, không chỉ đối
với
những người trong giới trí thức trực tiếp của ông mà c̣n đối với tất cả
những
người đứng đầu nhiều tông phái triết học và khoa học thuộc thời ông. Như
vậy,
chúng ta có định nghĩa thú vị của Vindhyavāsin, vị thầy tiếng tăm của Số
Luận
đă từng đánh bại thầy của Thế Thân trong một cuộc tranh biện, theo đó “tri
nhận là hoạt động của các giác quan như tai, v.v., mà không có cấu trúc
ngôn
ngữ”. Một lần nữa, chúng ta lại không biết chính xác từ ngữ ‘cấu trúc ngôn
ngữ’
ám chỉ điều ǵ ở đây, bởi v́ không có định nghĩa nào được cho.
Cố gắng hiển nhiên đầu tiên nhằm định nghĩa nó một cách công khai được t́m
thấy trong Yogasūtra, trong đó cấu trúc ngôn ngữ được định nghĩa là “tri
nhận
được tạo ra bởi các từ và không có thực thể nào”. Tuy nhiên, thật khó xác
định
khái quát định nghĩa này lần đầu tiên xuất hiện trong đó vào khi nào, mặc
dù
phần đông đều nghĩ rằng toàn bộ tác phầm chắc hẳn đă xuất hiện không lâu
trước khi Thế Thân ra đời. Dù sao đi nữa, nếu chúng ta suy đoán Yogasūtra
được viết giữa thế kỷ thứ III và thứ IV sdl. th́ nó rất khớp với t́nh
huống vừa
được mô tả, tức những người vào thời Thế Thân đă quá quen thuộc với ư
nghĩa
chính xác của từ ngữ ‘cấu trúc ngôn ngữ’ mà không phải mất công đưa ra
giải
thích nào thêm về ư nghĩa của nó, bởi v́ họ biết chính xác nó có nghĩa là
ǵ như
đă được định nghĩa trong Yogasūtra. Đó là chưa kể đến sự kiện cho dù không
có định nghĩa nghe có vẻ chuyên môn của Patañjali th́ từ ‘cấu trúc ngôn
ngữ’
h́nh như vẫn được xem là hàm chứa những ǵ nó ám chỉ ngay từ đầu, đó là
một
phát biểu có thể được diễn dịch theo cách nào đó để nó có thể mang nghĩa
khác
đi. Như vậy, trong Nyāyasūtra, ‘cấu trúc ngôn ngữ’ được dùng để mô tả nhiều
“cạm
“bẫy” luận lư khác nhau mà người ta có thể mắc phải trong tiến tŕnh thảo
luận
hay tranh luận (Nyāyāsūtra I.2. 10-17.). Và cách dùng này rơ ràng đă xuất
phát
từ thuật ngữ tế lễ của Mīmāṃsaka, trong đó từ này được dùng để chỉ cho tất
các các trường hợp trong đó một buổi lễ nào đó đă có trên một nghi thức
hoặc
hai dạng khác nhau của cùng một nghi thức, và chúng đều có thẩm quyển như
nhau cũng như mang lại kết quả giống nhau. (Mīmāṃsāsūtra XII. 3. 10:
ekārthās tu vikalperan samuccaye hy āvṛttiḥ syāt pradhānasya//.) Những
trường hợp này được gọi là ‘cấu trúc ngôn ngữ’ mà ư nghĩa của nó đă quá
hiển
nhiên: thật ra chỉ có một nghi thức, nhưng do các cấu trúc ngôn ngữ khác
nhau
cho nên đă có hai hoặc nhiều hơn, mà những nghi thức này, trong sự phân
tích
cuối cùng, đều có cùng nghĩa. V́ thế, xét theo sự phát triển lịch sử này,
định
nghĩa trên của Yogasūtra được minh chứng đầy đủ và làm sáng tỏ thêm một số
điều bí ẩn chung quanh từ ngữ này, những bí ẩn đă khiến cho nhiều nhà
nghiên
cứu thuộc lănh vực này phiên dịch sai lạc từ ngữ trên là “sự tưởng tượng”
(Sylvain Lévi, Matériaux pour l’étude du système vijñaptimātra, 106.).
“Cấu trúc ngôn ngữ là cái được sản sinh bởi kiến thức từ ngữ và không có
vật”
śabdajñānānupātī vastuśūnyo vikalpaḥ. Chắc chắn, nếu hai nghi thức hoặc
hai
dạng khác nhau của cùng một nghi thức có cùng hiệu quả như nhau và thuộc
cùng một thẩm quyền như nhau trong một cuộc tế lễ được cho th́ chỉ có thể
nhận ra sự khác biệt duy nhất của chúng nhờ vào cách dùng từ của chúng.
Đây
là những ǵ khiến chúng trở thành cái mà các nhà tế lễ gọi là “cấu trúc
ngôn
ngữ”. Và đó là những ǵ hàm chứa trong định nghĩa đă cho của Yogasūtra. Ư
nghĩa của từ ngữ này v́ thế rất rơ ràng ít ra cho đến thời Vindhyavāsin và
Thế
Thân. Thật vậy, phần lớn những người thừa hưởng di sản triết học Thế Thân
như Bhartṛhari, Aśvabhāva, v.v, đều sử dụng rộng răi khái niệm cấu trúc
ngôn
ngữ mà không hề bàn riêng đến ư nghĩa của nó là ǵ (Bhartṛhari,
Vākyapadīya
III. 8.). Rơ ràng, đó là từ ngữ tiêu chuẩn của ngôn ngữ triết học thời đó,
và ư
nghĩa của nó không c̣n điểm mơ hồ nào phải thắc mắc. Ngay cả khi Trần Na
thử thiết lập lại định nghĩa của nó th́ trong đó vẫn không t́m thấy sự
tách ly nào
đáng kể đối với những ǵ Yogasūtra đă cho. Như vậy, sau khi hỏi “Vậy cấu
trúc
ngôn ngữ này là ǵ?”, Trần Na cho chúng ta câu trả lời như sau:
Sự kết hợp của tên gọi, chủng loại, v.v., [với một vật được tri nhận].
Trong
trường hợp các từ có tính chất tùy nghi, một đối tượng được phân biệt bởi
một
tên gọi được diễn tả bằng một từ như Dittha. Trong trường hợp các từ chỉ
chủng
loại, một đối tượng được phân biệt bởi một chủng loại được diễn tả bằng
một từ
như “con ḅ”. Trong trường hợp các từ chỉ tính chất, một đối tượng được
phân
biệt bởi một tính chất được diễn tả bằng một từ như “trắng”. Trong trường
hợp
các từ chỉ hành động, một đối tượng được phân biệt bởi một hành động được
diễn tả bằng một từ như “nấu”. Trong trường hợp các từ chỉ thực chất, một
đối
tượng được phân biệt bởi một thực chất được diễn tả bằng một từ như “người
chống gậy” hay “người cầm c̣i”. Ở đây, đối với những từ sau chót này, có
người
cho rằng cái được chúng diễn tả là một đối tượng được phân biệt bằng sự
quan
hệ, trong khi có người chủ trương cái được diễn tả là một vật được trần
thuật
chỉ bởi các từ và nó không có đối tượng (Dignāga, Pramāṇasamuccaya I,
p.14a1-7.).
(đọc tiếp)
|