Lưới Tương
Giao
Hồng Dương
(III)
Mạng Toàn Cầu.
“Giả thử hết thảy thông tin chứa đựng trong máy tính khắp nơi được nối kết
... Tất cả những thông tin giá trị nhất trong mọi máy tính của CERN (Trung
tâm Âu châu Nghiên cứu Hạt nhân) và trên thế giới sẵn sàng để tôi và mọi
người sử dụng. Thế là xuất hiện một không gian thông tin toàn cầu đơn
nhất.” Đó là mộng ước của Tim Berners-Lee khi ông làm việc thảo chương tại
CERN, Geneva, Thụy Sĩ. Chương tŕnh điện toán ông lập vào năm 1980 để nối
kết máy tính hầu chia sẻ thông tin không ngờ mười năm sau biến thành Mạng
Toàn Cầu www (World Wide Web), mạng lưới nhân tạo rộng lớn nhất từ trước
đến nay. Mạng Toàn Cầu là diện bộ của Internet, Internet là h́nh thù hóa
thân của Mạng Toàn Cầu, là một mạng máy tính nối kết qua những đường
truyền dẫn điện. Hầu giúp t́m kiếm dễ dàng tài liệu cất giữ với một bộ máy sưu cầu (search
engine) đơn giản, nội dung các trang Mạng (Webpage) được sắp xếp theo
thông liệu (information; tài liệu thông tin) chứ không theo vị trí
(location). Ted Nelson, giáo sư Đại học Brown, Hoa kỳ, là người đầu tiên
có ư kiến dùng máy tính thiết kế một hệ thống tổ chức thông liệu mới mà
ông gọi là siêu bản (hypertext). Ông có nhu cầu viết một quyển sách về
triết lư trên máy tinh trong đó ông muốn tŕnh bày toàn bộ tư tưởng của
ông một cách có hệ thống. Theo ông siêu bản với những đường dây nối
(links) đi khắp mọi hướng mới có thể truy dụng tức thời trên máy giám thị
(monitor) những lời ông chú thích, kể cả bất kỳ bản văn nào khác mà ông
dẫn chứng. Trong bản sách chữ in, câu, đoạn, chương, và trang nối nhau theo một trật
tự được quyết định không những bởi tác giả mà c̣n bởi cấu trúc vật lư và
thứ tự theo chuỗi của chính cuốn sách. Tuy có thể ngẫu nhiên lật đến bất
cứ trang nào và t́nh cờ đặt mắt nh́n vào bất kỳ đoạn nào, cuốn sách chữ in
măi măi bị giữ chặt trong khuôn khổ cố định ba thứ nguyên. Không gian
thông tin không bị hạn chế như vậy. Câu văn phô diễn một ư niệm hay một
chuỗi tư tưởng thường đính theo một mạng dấu hiệu đa thứ nguyên chỉ nơi
cất giữ những chú giải đầy đủ hay những luận chứng biện minh để nếu cần
thời móc ngay ra trên máy giám thị. Cấu trúc của bản văn có thể ví với một
mô h́nh phân tử phức hợp trong một không gian nhiều thứ nguyên. Chữ và câu
có thêm thứ nguyên thời giống như thủy tinh với vô số khắc diện. Chúng có
thể hiện ra dưới nhiều góc độ khác nhau, đặt kề nhau hay chồng chập lên
nhau. Các mẫu thông liệu có thể sắp đặt lại theo thứ tự mới, câu văn có thể viết
lại dài hơn, và danh từ được định nghĩa ngay tại chỗ. Những đường dây nối
đó có thể do chính tác giả thêm vào khi “xuất bản” hay do độc giả ghép
thêm sau này. V́ có khả năng truy dụng tức thời bất kỳ bản văn nào cho nên
đường dây nối xem như hàm ư một bước nhảy. Với bước nhảy, tất cả mọi bản
văn đều xem như đồng thời câu khởi và sẵn sàng ứng hiện trên máy giám thị
nếu cần. Song song với sự phát triển dung lượng các bộ nhớ chứa đựng thông liệu và
với sự truyền dẫn dữ liệu qua các vệ tinh thông tin, nhóm Berners-Lee và
đồng sự ở CERN khai triển siêu bản thành một môi trường thích ứng với ngôn
ngữ thính thị, biến siêu bản thành đa môi trường (multimedia) [điện thị
(video), thành âm (audio), và dữ liệu (data)], và tạo ra một khổ siêu bản
đặt tên là HTML (hypertext markup language; ngữ pháp siêu bản) rất thích
dụng. Ngữ pháp riêng của các máy tính có thể chỉnh hợp để thích nghi với
khổ siêu bản của toàn Mạng. Ngoài ra, nhóm ấy c̣n thiết lập một thủ tục
truyền chuyển siêu bản (hypertext transfer protocol) gọi tắt là HTTP với
mục đích hướng dẫn sự truyền thông giữa những bộ máy tầm triển hồ sơ
(browser) và các trạm cất giữ tài liệu trên mạng (web servers). Họ c̣n đặt
ra một mẫu địa chỉ tiêu chuẩn gọi là URL (uniform resource locator; thiết
bị định vị tài nguyên nhất luật), một loại đường dây nối phối hợp thông
tin trên thủ tục truyền chuyển với thông tin trên địa chỉ của máy tính
đang có yêu cầu truy dụng. Thí dụ trên Mạng sử dụng thủ tục truyền chuyển
HTTP một đường dây nối URL có thể là:
http://www.ietf.org/rfc/rfc2396.txt Đường dây nối URL này nêu rơ ba điều: (1) http tức ứng dụng thủ tục truyền
chuyển HTTP, (2) www.ietf.org tức địa chỉ máy tính đang có yêu cầu truy
dụng, và (3) rfc/rfc2396.txt tức con đường dẫn đến vị trí của bản văn
rfc2396.txt trong máy tính ấy. Tóm lại, Mạng Toàn Cầu là một mạng lưới ảo, nút là các trang nhà (Webpage)
trưng bày hầu hết mọi thứ thông liệu như tin tức, hát bóng, quảng cáo,
chuyện tầm phào, địa đồ, h́nh ảnh, tiểu sử, sách, v..v.... Bất cứ thứ ǵ
có thể viết ra, vẽ h́nh, hay chụp ảnh đều có thể t́m thấy được trong một
nút của Mạng Toàn Cầu dưới một h́nh thức nào đó. Công năng của Mạng là do
các thiết bị URL cho phép click trên con chuột là có thể di chuyển từ
trang này sang trang khác. Nhờ các đường dây nối URL mà ta có thể lướt
(surf), định vị và xâu nối thông tin lại với nhau. Do các đường dây nối
này mà thu tập những tài liệu cá nhân biến chuyển và do những click trên
con chuột mà một mạng lưới thông tin khổng lồ được bện thành. Nếu cắt bỏ
các đường dây nối thời Mạng Toàn Cầu bị hủy diệt, vô số cơ sở dữ liệu hóa
thành vô dụng. Do siêu bản hủy bỏ giới hạn của trang chữ in, cuộc sống trên mạng trở nên
độc lập đối với một vị trí nhất định vào một lúc xác định. Ngoài ra, vị
trí c̣n có thể truyền chuyển nữa. Ngồi tại một nơi mà vẫn có thể chứng
kiến trên Mạng cảnh hoạt động ồn ào náo nhiệt ở một nơi khác như tuồng
đang đứng tại đó. Có những việc của sở có thể làm ngay tại nhà ngồi trước
một máy tính cá nhân, không khác ǵ ngồi trong văn pḥng tại sở. Ngay định
nghĩa thế nào là địa chỉ cũng đă thay đổi v́ hiện nay mang một ư nghĩa mới
có tính cách như một số an sinh xă hội (Social security number) chứ không
c̣n là tọa độ trên một con đường. Địa chỉ hóa thành ảo.
Hăy ví siêu bản với một tập hợp thông điệp co dăn, thun lại hay trương ra
tùy theo tác động của người đọc. Ư tưởng có thể khai phát và phân tích ở
nhiều mức độ chi tiết khác nhau. Ta có cảm giác hết thảy biểu tượng khắp
mười phương và nơi chín thế đều hóa hợp trong cùng siêu bản, thứ tự thường
xuyên thay đổi, và truyền đạt bất kỳ lúc nào, bất cứ ở đâu, tùy thuận
quyền lợi của người gửi và tánh khí của người nhận. Nói cách khác, Mạng
Toàn Cầu đă tạo ra một mô phỏng thực tại trên máy tính, một thực tại ảo
(virtual reality). Thực tại ảo là thực tại của chúng ta v́ chính cái khung
ư niệm về các hệ thống biểu tượng phi không gian, phi thời gian ấy là nơi
ta y cứ để tạo lập các phạm trù và hoán khởi các ảnh tượng, chính cái
khung ư niệm ấy đă h́nh thành tập tính, nuôi dưỡng vọng tưởng, và gây
phiền năo. Nếu sống trở lại thời đại thông tin hiện nay, nữ hoàng Vũ Tắc Thiên chắc
chắn sẽ không cần đến thí dụ Sư tử vàng hay căn pḥng đầy mặt kính với ở
chính giữa một ngọn đèn đốt sáng đặt bên cạnh một tượng Phật của ngài Pháp
Tạng. V́ lẽ cố nhiên nữ hoàng thừa thông minh để biết cách tận dụng Mạng
Toàn Cầu, để nhận thấy Mạng có nhiều tính chất của lưới báu Đế Thích, và
do đó thông đạt ư nghĩa viên dung của Hoa nghiêm tông. Nhưng thế nào là
lưới báu của Đế Thích? Hầu giải thích ư nghĩa viên dung, Đỗ Thuận, khai tổ
của Hoa nghiêm tông, đă miêu tả lưới báu của Đế Thích trong Hoa nghiêm ngũ
giáo chỉ quán như sau, Tuệ Sỹ dịch:
“[T45n1867_p0513b09] Mạng lưới bằng các hạt châu của trời Đế Thích được
gọi là lưới của Nhân-đà-la. Mạng lưới của Đế Thích này được làm thành bằng
châu báu. Do ánh sáng của các hạt châu rọi suốt, lần lượt hiện ảnh lẫn
nhau, lẩn vào trong nhau, trùng trùng vô tận. Trong một hạt châu mà đột
nhiên đồng thời xuất hiện. Cứ mỗi hạt châu đều như vậy, hoàn toàn không có
đến hay đi. Nay hăy nhắm về phía tây nam, lấy một hạt châu mà nghiệm. Ngay
nơi một hạt châu mà đồng loạt hiện ảnh của tất cả hạt châu. Hạt châu này
đă như vậy, mỗi một hạt châu khác cũng như vậy. Mỗi một hạt châu cùng một
lúc đồng loạt hiện hết thảy hạt châu đă vậy, mỗi một hạt châu khác cũng
vậy. Như vậy trùng trùng vô tận, không có biên tế. Có biên tế chính là
bóng các hạt châu trùng trùng không biên tế, thảy đều hiện trong một hạt
châu, rỡ ràng xuất hiện trên cao. Những cái khác không phương hại đến cái
này. Khi ngồi trong một hạt châu tức là ngồi trong hết thảy hạt châu,
trùng trùng vô tận. V́ sao vậy? Trong một hạt châu có tất cả toàn bộ hạt
châu. Khi trong tất cả toàn bộ hạt châu có một hạt châu, chính cái toàn bộ
ấy cũng mang tất cả hạt châu. Chuẩn theo đây mà tư duy về toàn bộ (nhất
thiết). Tất cả toàn bộ hạt châu đă lẩn vào trong một hạt châu mà hoàn toàn không
ra khỏi một hạt châu này. Một hạt châu lẩn vào trong tất cả hạt châu mà
hoàn toàn không dậy lên một hạt châu này. Hỏi: Đă nói tất cả toàn bộ hạt châu lẩn vào trong một hạt châu mà hoàn
toàn không ra khỏi hạt châu này, làm sao lại có thể lẩn vào trong tất cả
hạt châu?
Đáp: Chỉ do không ra khỏi hạt châu này nên mới có thể lẩn vào tất cả hạt
châu. Nếu ra khỏi một hạt châu mà lẩn vào tất cả hạt châu, tức là không
thể lẩn vào trong tất cả hạt châu vậy. V́ tách ra ngoài hạt châu này bên
trong không có hạt châu nào khác nữa.
Hỏi: Nếu tách ra ngoài hạt châu này mà bên trong không có tất cả toàn bộ
hạt châu, vậy th́ mạng lưới này được làm thành chỉ do bởi một hạt châu;
vậy sự kiện do nhiều hạt châu mà làm thành là thế nào?
Đáp: Chỉ do độc nhất một hạt châu mới bắt đầu từng hạt một để kết nhiều
hạt thành mạng lưới. V́ sao vậy? V́ do một hạt châu này độc nhất làm thành
mạng lưới. Nếu bỏ đi hạt châu này, toàn thể không có lưới.
Hỏi: Nếu duy độc nhất một hạt châu, làm sao có thể bắt đầu làm thành lưới?
Đáp: Sự kiện kết nhiều hạt châu làm thành lưới, đó chính là duy độc nhất
một hạt châu. V́ sao vậy? Một chính là tổng tướng, có đủ sẵn cái nhiều để
làm thành. Nếu không có cái một, tất cả toàn bộ cũng không. Cho nên, bằng
một hạt châu mà làm thành mạng lưới vậy. Tất cả (nhất thiết) lẩn vào một,
chuẩn theo đây mà biết.” Trong đoạn văn trên, có câu: “Do ánh sáng của các hạt châu rọi suốt, lần
lượt hiện ảnh lẫn nhau, lẩn vào trong nhau, trùng trùng vô tận. Trong một
hạt châu mà đột nhiên đồng thời xuất hiện. Cứ mỗi hạt châu đều như vậy,
hoàn toàn không có đến hay đi.” Trên Mạng Toàn Cầu cũng vậy. Khi lướt
Mạng, tất cả những trang hiện trên máy giám thị (monitor) xuất khởi từ các
trạm cất giữ tài liệu (servers) khắp nơi trên thế giới, có khi nào mắt ta
rời khỏi trang nhà trên màn ảnh của máy giám thị, tức hạt châu mà ta chăm
chú quan sát như một nhà chiêm bốc nh́n vào quả cầu thủy tinh? Mỗi lần bắt
buộc phải lướt Mạng, có phải ta thật sự chẳng bao giờ đến hay đi? Đặc biệt là Mạng Toàn cầu phản chiếu chẳng những tất cả hạt châu mà c̣n
cấu trúc các đường dây nối giữa các hạt châu, một cấu trúc “nhất đa tương
dung” hay “tương tức”. Các gói thông liệu tuy khác nhau nhưng không rời
nhau, v́ chúng hỗ tương nhiếp nhập trong một không gian phi không gian,
trống rỗng và mỗi nút hay trang nhà phản chiếu toàn Mạng, đúng như lời của
Đỗ Thuận: “Tất cả toàn bộ hạt châu đă lẩn vào trong một hạt châu mà hoàn
toàn không ra khỏi một hạt châu này. Một hạt châu lẩn vào trong tất cả hạt
châu mà hoàn toàn không dậy lên một hạt châu này.” Đỗ Thuận c̣n nói: “Sự kiện kết nhiều hạt châu làm thành lưới, đó chính là
duy độc nhất một hạt châu. V́ sao vậy? Một chính là tổng tướng, có đủ sẵn
cái nhiều để làm thành. Nếu không có cái một, tất cả toàn bộ cũng không.
Cho nên, bằng một hạt châu mà làm thành mạng lưới vậy.” Mỗi hạt châu là
nhân của toàn thể mà đồng thời cũng là quả do toàn thể hạt châu khác làm
nhân. Trong toàn thể, nhân quả đồng thời. Như vậy, khi lướt Mạng, bất cứ
màn nào móc ra trên máy giám thị không phải chỉ “ở trên” Mạng mà thật ra
là toàn Mạng. Màn đó là hiện thân của tấm thảm Mạng. Trong một mạng lưới
không có trung tâm, bất cứ nút nào cũng là trung tâm. Mạng h́nh thành là do sự tự do đóng góp xây dựng của nhiều tài năng khắp
thế giới và do tương giao tác dụng rất tự do với hàng triệu người sử dụng
nó. V́ phần mềm được phân phát rộng răi và bất cứ ai cũng có thể tùy tiện
ghép thêm nút vào Mạng rất dễ dàng chẳng tốn kém bao nhiêu cho nên những
người sử dụng đồng thời góp phần sản xuất kỹ thuật, uốn nắn Mạng thích
nghi với những nhu cầu riêng biệt. Hơn nữa, thời gian cách biệt giữa tiến
tŕnh học hỏi bằng cách sử dụng và tiến tŕnh sản xuất bằng cách sử dụng,
đặc biệt thu ngắn rất nhiều. Nghĩa là có một sự hồi tiếp cải tiến giữa sự
truyền bá và sự hoàn chỉnh kỹ nghệ, nguyên nhân Mạng Toàn Cầu phát triển
với một tốc độ khác thường. Số người sử dụng tăng vọt từ 20 triệu trong
năm 1996 lên 300 triệu vào năm 2 000. Từ một số ít trang năm 1993 nhảy vọt
lên hàng triệu trang năm 1998, và cứ sáu tháng độ lớn của Mạng gia tăng
gấp đôi. Sự tăng trưởng của Mạng với một tốc độ không ngừng gia tăng là do tân kỹ
nghệ điện tử, máy tính, và viễn thông phát triển nhanh chóng, dẫn khởi
những ṿng hồi tiếp khiến Mạng đă phức hợp càng phức hợp thêm. Khi thông
liệu thay đổi, các đường dây nối và tần số thăm viếng một số dịch trạm
(site) cũng thay đổi theo. Mạng biến thành một hệ sinh thái với số thông
liệu nhiều đến đỗi không máy sưu cầu tối tân ưu hạng nào có thể sắp hạng
số trang không ngớt tăng gia trên Mạng. Ngoài tác dụng thông tin, Mạng c̣n là nguồn sanh lợi và cạnh tranh đối với
hết thảy mọi ngành thương măi. Mạng cho phép thiết lập những cơ sở giao
dịch buôn bán trực tuyến (online) thường gọi chung là e-B, e tức
electronic (điện tử) và B tức business (giao dịch thương măi). Các cơ sở
này thực hiện những dịch vụ không thực thể, như giải trí, du lịch, thông
tin, và ngân hàng, đồng thờiø buôn bán những hàng hóa nặng nề của kinh tế
tập truyền như xe hơi và máy tính. Mạng đă biến đổi lề lối giao dịch
thương măi trong quan hệ với người cung cấp và người tiêu thụ, trong
phương pháp quản trị và điều hành, trong tiến tŕnh sản xuất, trong sự hợp
tác với những hăng khác, trong cách xuất vốn và lượng định giá cổ phần
trong thị trường chứng khoán. Mạng xuất hiện như là một hệ thống thông tin phức hợp có tác dụng giao
liên truyền chuyển những kinh nghiệm nhận thức và hành động của con người,
điều chỉnh và phối hợp hết thảy mọi thứ kiến thức bị chia chẻ và phân tán
trong không gian và thời gian. Hiện Mạng chứa ước chừng hàng trăm triệu
trang nhà đầy ắp thông liệu nối kết nhau một cách rất hỗn tạp và tùy tiện
cọng thêm rất nhiều cơ cấu truy nhập. Các trang thông liệu chuyêån vận
xoay ṿng, trang thông liệu cung cấp trang thông liệu tạo thành những ṿng
tự phản thân (self reflexive loops). Nghĩa là, Mạng cung cấp những trang
thông liệu, rồi đến phiên các trang thông liệu trở lại tái thiết Mạng,
Mạng trở lại cung cấp những trang thông liệu, cứ xoay vần như vậy tương tợ
một hệ thống sống liên tục tự tạo tự sinh (autopoietic system). Các ṿng
tự phản thân không khép kín mà trái lại mở đường cho những trang thông
liệu giao liên vướng mắc với hệ thống khác, mạng lưới khác. Do tương tác
và biến đổi, các trang nhà không ngừng tái xây dựng Mạng, nơi phát sinh
chúng. Tóm lại, Mạng Toàn Cầu là toàn thể hỗ tương giao thiệp đa thứ nguyên giữa
các trang nhà với trang nhà và giữa các trang nhà với Mạng. Mạng và các
trang nhà hỗ tương y tồn, hỗ tương nhiếp nhập. Mạng Toàn Cầu đáng được xem
là một thí dụ cụ thể biểu dương ư nghĩa tương giao và nhất thể của Hoa
nghiêm. Bit: Không hay Bất không. Sự phát triển Mạng Toàn Cầu bắt nguồn từ cuộc cách mạng phương pháp khảo
sát thế giới hiện tượng, nguồn gốc phát sinh văn hóa mạng lưới (network
culture). Thế giới không do những mối quan hệ tuyến tính cấu thành mà là
một hệ thống gồm vô số mạng lưới phức hợp tương tức tương nhập. Thế giới
không phải là một hệ thống máy móc mà là một mạng lưới rộng lớn bao gồm vô
số hệ sinh thái (ecosystem) hỗ tương nhiếp nhập.
Sự xuất hiện văn hóa mạng lưới xảy ra đồng thời với cuộc cách mạng thông
tin (information revolution) phát xuất từ quan niệm thông tin là bản chất
của thực tại. Mở đầu bản tuyên ngôn (Manifesto) của cuộc hội thảo về “Tánh
phức hợp, Entropy, và Vật lư Thông tin” (Complexity, Entropy, and the
Physics of Information) do Viện Santa Fe, New Mexico, Hoa kỳ. bảo trợ vào
Xuân 1989, khoa học gia Wojciech Zurek phỏng theo câu mở đầu Bản tuyên
ngôn của Đảng Cọng sản (1848; A spectre is haunting Europe – the spectre
of communism) viết về cuộc cách mạng thông tin như sau: “Quỷ thông tin
đang quấy nhiễu các ngành khoa học.” (The specter of information is
haunting the sciences) Sau đó, ôâng nhấn mạnh sự gia tăng tầm quan trọng
của thông tin trong nhiều ngành khoa học: “Nhiệt động học, phần lớn căn
bản của cơ học thống kê, thuyết lượng tử về đo lường, vật lư học về kế
toán, và rất nhiều vấn đề về thuyết hệ động lực, phân tử sinh học, di
truyền học, và khoa học máy tính, tất cả cùng chia xẻ một đề chung là
thông tin.” Nhưng thử hỏi đối với các nhà vật lư học thế nào là thông tin?
Muốn hiểu thế nào là thông tin, thời phải định nghĩa, nhưng muốn định
nghĩa thời phải hiểu thế nào là thông tin. Vậy bắt đầu từ đâu?
Các nhà vật lư học thường thi thiết những khái niệm mới một cách rất thực
tiễn. V́ toán là ngôn ngữ của vật lư học, và toán liên hệ số, cho nên một
thành tố chủ yếu của mọi lư thuyết vật lư là đo lường, sự ghép lượng vào
phẩm. Bởi thế các khái niệm mới đều được định nghĩa bằng cách mô tả cách
thức đo lường chúng. Định nghĩa như vậy gọi là định nghĩa khả dụng
(operational definition), không bắt buộc phải biết rơ vật đem đo lường là
cái ǵ. Thí dụ: Vào khoảng năm 1600 khái niệm nhiệt độ được định nghĩa là
đại lượng đo bằng một nhiệt kế. Sau đó một phần tư thiên kỷ tức là vào
giữa thế kỷ 19, nhờ sự hiểu biết thêm về nhiệt bằng thí nghiệm, nhiệt độ
được định nghĩa là độ đo tốc độ trung b́nh của các phân tử. Đơn vị đo lường thông tin trong thế giới hiện tượng là bit (binary digit;
chữ số nhị phân). Bit không màu sắc, kích thước, hay trọng lượng, và có
thể truyền dẫn với tốc độ ánh sáng. Bit là phần tử bé nhất của thông liệu.
Bit là một trạng thái của hữu: mở hay tắt, đóng hay cắt, lên hay xuống,
vào hay ra, đen hay trắng. V́ lư do thực dụng, ta xem bit biểu tượng sự
lựa chọn giữa hai chữ số là 1 hay 0. Ư nghĩa của 1 hay 0 là một vấn đề
khác. Mặc dầu bit là một khái niệm trừu tượng, nhưng v́ không tránh khỏi
dùng vật liệu như giấy mực, chip vi tính, hay tế bào năo để mă hóa, cho
nên một chuỗi bit là một tài nguyên vật lư. Có thể h́nh dung thế giới các
bit như một thế giới vô tướng châu biến hàm dung trong thế giới hiện tượng
gồm nguyên tử (hạt) và bức xạ (sóng). Một tập hợp kư hiệu 0 và 1 có giá trị thông liệu chỉ khi nào tổ chức thành
những mẫu h́nh đặc thù riêng biệt. Kư hiệu xây dựng hạ tằng cơ sở, thông
liệu chuyên chở ư nghĩa. Trong buổi ban sơ của máy tính, một chuỗi bit
thường biểu tượng một thông liệu số. Nhưng trong ṿng ba chục năm nay,
nhiều thứ thông liệu khác như thành âm (audio) và điện thị (video) cũng đă
được mă hóa nhị phân, biểu tượng bằng bit. Để có một ư niệm về cách thông liệu trong thiên nhiên truyền qua mắt dẫn
đến năo bộ, hăy nghĩ đến một máy chụp h́nh số tự (digital camera) được chế
tạo để mă hóa h́nh ảnh thành bit. Thiên nhiên biến đổi mọi thứ thông liệu
ta chú ư thành xung điện sai biệt trong không gian và thời gian. Những
xung điện này được chuyển tải đến mắt bởi các hạt photon (quang tử), thực
ra cũng là cơ cấu mă hóa nhị phân. Khi các xung điện truyền đạt đến mắt,
tức thời bị mắt mă hóa như do bởi cái máy chụp h́nh số tự. Thông liệu cũng
được mă hóa qua tai, mũi, lưỡi, và thân giống như qua mắt rồi truyền
chuyển đến năo để được xử lư và ghi thâu. Bộ năo cũng vậy, bao gồm hết
thảy các giao liên trao đổi tín hiệu giữa các tế bào năo, là một tiến
tŕnh xử lư thông liệu mă hóa rất công hiệu. Thông liệu được xử lư không
duy nhất trong bộ năo mà trong tất cả mọi chất sống. Thật vậy, môn phân tử
sinh học mô tả các tế bào như nơi chứa đựng thông liệu di truyền, sự sinh
trưởng và tập tính các sinh vật như do mă di truyền kiểm định. Giống như trường hợp năng lượng, thông tin có thể mô tả bằng ngôn ngữ toán
học và xem như một sản vật có thể đo lường, mua bán, chế định, và đánh
thuế. Tuy nhiên, khác với năng lượng, thông tin có tánh chủ quan
(subjectivity). Không hoàn toàn ở trong một hệ thống vật lư, như năng
lượng chuyển hóa ở trong kẹo bánh, điện năng trong b́nh ắcquy, hóa năng
trong thùng xăng, động năng trong làn gió, thông tin c̣n có một phần ở
trong tâm thức. Hăy lấy số 14159265 làm thí dụ. Đối với ai chưa từng làm
quen với số pi thời số đó không có ư nghĩa ǵ cả. Nhưng đối với các nhà
khoa học thời đó là phần lẻ của một thông liệu khoa học quan trọng. Thông tin như chữ “sách” chẳng hạn, không những biểu dương một thông điệp
viết mà c̣n chỉ thị những kư hiệu tự mẫu s, a, ‘, c, h, dùng viết chữ ấy.
V́ vậy, thông tin xem như có hai nghĩa. Một, trong ngôn ngữ hằng ngày,
thông tin mang ư nghĩa của một thông điệp nào đó, và hai, nó là kư hiệu có
công dụng truyền chuyển thông điệp, kư hiệu có thể là chữ cái, số, hay
chuỗi 0 và 1. Theo nghĩa thứ hai, “công nghệ thông tin” (information
technology) là ngành kỹ thuật chuyên cất giữ, truyền chuyển, phô bày, và
xử lư kư hiệu, không cần biết đến ư nghĩa của chúng. Các thành phần chính yếu của khoa học thông tin, theo vật lư gia Benjamin
W. Schumacher, có thể lược giản thành một phương pháp ba giai đoạn:
1.- Xác định một tài nguyên vật lư. Thí dụ một chuỗi lựa chọn nhị phân,
một chuỗi câu hỏi chỉ có hai cách trả lời: có hay không? đúng hay sai? sấp
hay ngữa? zero hay một? Claude E. Shannon, nhà khoa học sáng thiết thuyết
thông tin, tương hợp mỗi lựa chọn với một bit.
2.- Xác định một công việc xử lư thông tin có thể thực hiện với sự sử dụng
tài nguyên vật lư xác định trong giai đoạn 1. Thí dụ công việc phần đầu là
áp nén (compression) xuất liệu (output) từ một nguồn thông tin, như bản
văn trong một quyển sách chẳng hạn, vào trong một chuỗi bit, và phần sau
là khử áp (decompression) chuỗi bit ấy, tức phục hồi thông tin nguyên thỉ
áp nén trong chuỗi bit.
3.- Xác định một tiêu chuẩn về sự thành tựu công việc xác định trong giai
đoạn 2. Thí dụ: tiêu chuẩn bảo rằng xuất liệu sau khi khử áp phải hoàn
toàn trùng hợp với nhập liệu trước khi áp nén. Như vậy câu hỏi căn bản của thông tin học là “Tối thiểu cần bao nhiêu số
lượng tài nguyên vật lư (giai đoạn 1) để thực hiện công việc xử lư thông
tin (giai đoạn 2) theo đúng tiêu chuẩn thành tựu (giai đoạn 3)?” Câu hỏi
này tuy không chuyển đạt hết tất cả những ǵ thuộc khoa học thông tin
nhưng có thể giúp ta nhận xét và phân tích những công tŕnh nghiên cứu
thuộc lĩnh vực thông tin. Ví như trong trường hợp áp nén dữ liệu (data compression), câu hỏi là:
“Tối thiểu cần bao nhiêu bit để chứa đựng thông tin do một nguồn nào đó
sản xuất?” Để giải quyết vấn đề này hầu giúp các kỹ sư điện thiết lập
những hệ thống viễn thông công hiệu, Shannon phát minh một cách đo lường
thông tin do một nguồn thông tin sản xuất và phổ biến ư kiến của ông trong
bài báo nổi tiếng “Thuyết toán học về truyền thông” (The Mathematical
Theory of Communication; 1948). Áp dụng cách đo lường Shannon để đo ‘số lượng thông tin’ trong một thông
điệp thời không cần định nghĩa thế nào là ‘thông tin’, và ngay cả ư nghĩa
của thông điệp cũng không cần biết. Phương pháp đo lường của Shannon áp
dụng dễ nhất là vào các thông điệp gồm những chuỗi lựa chọn giữa hai tương
phản: đúng hay sai, sấp hay ngữa, 0 hay 1. Muốn đo số lượng thông tin của
một thông điệp do một nguồn sản xuất, hăy mă hóa nhị phân thông điệp thành
một chuỗi gồm toàn chữ số 0 và 1, rồi đếm có bao nhiêu chữ số trong chuỗi
ấy. Số chữ số đếm được ông định nghĩa là số bit tối thiểu cần để chứa đựng
xuất liệu từ nguồn. Biểu thức toán học về số lượng thông tin nay được gọi
là Shannon entropy và kỹ thuật đo thông tin bằng cách đếm gọi là phép đếm
bit (bit-counting). Theo Shannon, sở dĩ dùng mă nhị phân trong phép đếm bit v́ đây là phương
cách ít tốn kém nhất để đo số lượng thông tin. Mặc dầu rất công hiệu trong
việc truyền dẫn, chứa đựng, và xử lư dữ liệu nhị phân, bit và phép đếm bit
hoàn toàn không giải đáp những câu hỏi liên quan đến tánh chủ quan của
thông tin, đặc biệt là vấn đề ư nghĩa, ‘Các kư hiệu chuyển đạt ư nghĩa của
thông điệp đúng đến mức nào?’, và vấn đề hiệu nghiệm, ‘Thông điệp nhận
được tác dụng trên hành vi hiệu quả như thế nào so với ư muốn?’ Shannon
chủ trương “những ǵ liên can ngữ nghĩa đều không thích hợp với vấn đề kỹ
thuật.” Chủ trương này rất thích hợp với vật lư học luôn luôn gạt ra ngoài
những vấn đề liên can tánh chủ quan. Trong Tựa Nhận thức và Tánh Không, có đoạn Thầy Tuệ Sỹ đặt câu hỏi: “Phục
Hy phát hiện khái niệm nhị phân bằng hai hào. Ông chồng ba bit-hào thành
một quẻ; thu hoạch được tám quẻ. Rồi chồng nữa, ông có bộ nhớ 6 bit-hào,
nhận được 64 kư tự-quẻ, nói đủ để ghi tất cả mọi hiện tượng, từ thiên
nhiên, xă hội, con người. Ghi bất cứ cái ǵ mà con người có thể suy nghĩ
và tưởng tượng. Nhưng phát hiện của Phục Hy được thấy là hữu ích cho việc
bói toán hơn là hỗ trợ bộ óc của con người, như vi tính ngày nay, tại
sao?”
Và trả lời: “Người học Phật chỉ có thể nói: căn, cảnh, thức; ba sự ḥa
hiệp xúc. Duyên xúc phát sinh thọ. Xúc dị biệt nên cảm thọ dị biệt. Không
cùng môi trường «thức ăn» th́ không thể nh́n giống nhau được. Hai bờ sông
Ngân có hai cḥm sao. Từ Đông hay Tây, nh́n lên đều thấy. Ở bên này Thái
b́nh dương nh́n lên, đó là Ngưu lang, người chăn ḅ, và Chức nữ, cô gái
dệt lụa. Và một thiên t́nh sử năo ḷng. C̣n bên kia Đại tây dương nh́n
lên, đó là con thiên ưng và cây đàn bảy giây. Không có dấu hiệu ǵ chứng
tỏ con chim đang cố vượt sông Ngân để sang bờ bên kia nghe đàn, mà được
thấy là đang đi t́m trái tim của vị thần ăn cắp lửa. Cách nh́n khác nhau
vạch ra định hướng lịch sử khác nhau, và tạo dựng những nền văn minh khác
nhau.” Đúng vậy. Nhà khoa học, triết học, và toán học Gottfried W. Leibniz
(1646-1716), người phát minh toán vi tích phân (Calculus) đồng thời và độc
lập với Newton cũng là người đầu tiên từ năm 1666 t́m cách sáng chế một hệ
thống kư tự phổ quát (characteristica universalis) trong đó một logic h́nh
thức (symbolic logic; calculus ratiocinator; luật tư duy) chuyển dịch mọi
phát biểu bằng lời nói thường có tính cách mơ hồ thành những mệnh đề toán
học chính xác, qui giảm hết thảy mệnh đề chân thật của luận lư về ngôn ngữ
của toán vi tích phân. Áp dụng phép đếm nhị phân, ông chỉ sử dụng hai chữ
số nhị phân 0 và 1 làm kư tự để thành lập các biểu thức số học. Leibniz tin tưởng trên nguyên tắc mọi vấn đề đều có thể giải quyết. Trước
hết, tạo một môi trường phổ quát trong đó các ư tưởng tương phản có thể
đồng thời câu khởi và tương hỗ. Hệ thống kư tự phổ quát tựa trên một logic
nhị phân là ngữ pháp có khả năng chuyển dịch tất cả khái niệm và ư kiến
bất đồng vào cùng một tập hợp kư hiệu. Điểm khác biệt với ngôn ngữ thông
thường là hệ thống kư tự phổ quát không phát âm và không bị chất liệu nội
dung hạn chế. Không nội dung và im lặng, ngữ pháp nhị phân có thể chuyển
đổi mọi mệnh đề có ư nghĩa thành những thuật ngữ của logic vi tích phân,
một hệ thống chứng minh những mẫu h́nh luận chứng đúng hay sai, hoặc liên
kết chúng thành một ma trận (matrix). Do đó, các tiến tŕnh tư duy trái
nghịch có thể đồng thời diễn biến cùng trong một môi trường. Mọi sự bất
đồng về thái độ hay niềm tin, một khi chuyển dịch qua kư tự tương ứng, có
thể dẫn khởi những phép diễn toán không vấp phải mâu thuẫn phi lư. Kết quả
là logic vi tích phân chỉ chỗ đúng sai của biện luận, ra ngoài những phát
biểu mơ hồ, những lối nh́n thành kiến. Dạo ấy, Leibniz hay viết về những vấn đề thần học liên hệ đến người Trung
Hoa và thường trao đổi thư từ với các linh mục Ḍng Tên truyền đạo ở Trung
Hoa đang nghiên cứu Kinh Dịch để t́m điểm tương đồng giữa tín ngưỡng của
người Trung Hoa và Thiên chúa giáo. Leibniz có tin cho Joachim Bouvet,
linh mục Ḍng Tên người Pháp ở Bắc kinh biết cách ông đếm bằng hai số 0 và
1. Chẳng bao lâu sau khi nhận được thư trả lời kèm theo h́nh 64 quẻ kép
trong Kinh Dịch của Bouvet cho biết có sự tương quan giữa các quẻ ấy và
phép đếm nhị phân của ông, ông đệ tŕnh Viện Hàn lâm Hoàng gia Khoa học
(1703) bài “Giải thích số học nhị phân chỉ dùng kư tự 0 và 1, kèm theo
đoản b́nh về sự lợi ích của nó và về sự nó giải thích ư nghĩa những h́nh
tượng Trung Hoa thời cổ đại đời vua Phục Hy” (Explication de
l’arithmétique binaire, qui se sert des seuls caractères 0 et 1, avec des
remarques sur son utilité, et sur ce qu’elle donne le sens des anciennes
figures Chinoises de Fohy). Có đoạn ông viết: “Điểm bất ngờ trong phép
tính này là số học chỉ dùng 0 và 1 chứa đựng điều bí ẩn về các vạch của
vua và triết gia thời cổ tên Phục Hy ... ... ... Nhiều quẻ được cho là do
ông vua ấy vạch ra, tất cả đều có thể suy ra từ số học này.
Nhưng chỉ cần đưa ra đây h́nh của tám quẻ đơn gọi là Bát quái là những
h́nh cơ bản, và thêm vào đó lời giải thích, thật ra đă hiển nhiên, để hiểu
ngay một vạch liền ¾ có nghĩa là đơn vị hay 1 và một vạch đứt - - có nghĩa
là zero hay 0. Người Trung Hoa đánh mất đi sự hiểu biết ư nghĩa của Bát quái hay những
vạch của Phục Hy, có thể hơn ngàn năm nay, và họ đă viết những lời chú
giải các quẻ, t́m kiếm tôi không biết ư nghĩa xa xưa nào, cho nên bây giờ
trở nên cần thiết đối với họ là có lời giải thích chân thật từ phía người
Âu châu.” Ngoài ra, Leibniz gia công chế tạo máy tính thích hợp với ngôn ngữ nhị
phân có khả năng diễn toán trên các chuỗi số nhị phân theo qui tắc logic
h́nh thức nhưng không thành công. Măi hơn hai thế kỷ sau nhờ những công
tŕnh tiếp tục nghiên cứu những ư kiến của Leibniz do những tên tuổi như
Boole, Venn, Russell, Whitehead, Shannon, và nhiều nhân vật khác nữa,
logic h́nh thức mới có thể vận dụng để chứng minh bằng pháp diễn dịch
trong các mạch điện tử. Sau đó, John von Neumann áp dụng số học nhị phân
của Leibniz khai thiết máy điện toán số tự (digital computer).
(xem phần bốn) |