Kinh Hoa nghiêm, nói một cách
đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để
thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giới có lư sự vô ngại và sự sự vô ngại. Lư
sự vô ngại có nghĩa là mỗi pháp bao gồm toàn thể các pháp, sự sự vô ngại
có nghĩa là các pháp hỗ tức hỗ nhập. Hỗ nhập bởi v́ chúng là duyên khởi.
Duyên khởi thời vô tự tính nên chúng hỗ tức. Do các pháp đồng thời hiện
khởi và bao hàm dung nạp lẫn nhau cho nên “Một là trong Tất cả” và “Tất cả
là trong Một”. Mặc dầu tất cả pháp hỗ tương nhiếp nhập không ngăn ngại đối
với nhau, chúng vẫn duy tŕ trọn vẹn cá biệt tính trong tự thân, phân lập
và đối đầu lẫn nhau.
Pháp giới Hoa nghiêm thường được ví như mạng lưới bằng các hạt châu của
trời Đế Thích. Mỗi hạt châu vừa phản chiếu vừa bị phản chiếu bởi mỗi và
mọi hạt châu kia, như vậy mỗi hạt châu hiện ảnh tất cả toàn bộ mạng lưới
hạt châu, thi thiết lư sự vô ngại, và hiện ảnh tất cả các hạt châu khác,
thi thiết sự sự vô ngại. Trong mỗi tấm lưới phản chiếu, lại có vô số hạt
châu và mỗi hạt châu đó lại cũng phản chiếu toàn bộ mạng lưới. Quá tŕnh
phản chiếu lẫn nhau tăng gia trùng trùng vô tận, biểu tượng toàn thể mọi
tương quan giao thiệp hỗ tức hỗ nhập, dung thông vô ngại của tất cả hiện
tượng trong vũ trụ.
Trong Hoa nghiêm, duyên khởi có nghĩa là hiện khởi hỗ tương nhiếp nhập vô
ngại. V́ là duyên khởi nên bản thể và hiện tượng bao hàm dung nạp lẫn
nhau, đồng và dị trở thành ḥa hợp, Lư và Sự hỗ tức hỗ nhập. Phép quán “Lư
Sự viên dung vô ngại” làm sáng tỏ ư nghĩa Tổ tín “Ta là Phật”. V́ Lư Sự
dung thông nên mọi pháp đều là Phật. Để quảng diễn công thức này, các học
giả Hoa nghiêm bày ra thuyết tánh khởi. Nói ngắn gọn, tánh khởi mô tả mọi
sự vật trong Pháp giới đều là dụng của Phật. Danh từ Tánh khởi mượn từ nơi
đề mục của Phẩm 32: “Bảo vương Như Lai tánh khởi chương”, bản dịch Hoa
nghiêm 60 quyển của Phật đà bạt đà la (Buddhabhadra), xuất hiện sớm nhất
là trong Đại thừa Nghĩa chương của Huệ Viễn. Trong đó, chữ “tánh” trong
“tánh khởi” chỉ tánh thường hằng bất biến, và tánh thường hằng bất biến
lại chỉ vào Như Lai tạng tánh. Về sau, Trí Nghiễm (602-668), Nhị Tổ Hoa
nghiêm tông, giải thích tánh khởi là bất khởi: “Tánh khởi là sự thuyết
minh về pháp giới của Nhất thừa, cùng cực biên tế của duyên khởi, cứu cánh
của bản lai, vượt ngoài mọi tu tập tạo tác. V́ sao? V́ ly tướng. Khởi từ
trên đại giải, đại hành, ở trong tâm bồ đề vốn vượt ngoài phân biệt; đó là
khởi. Do tánh duyên khởi (do duyên mà khởi tánh) nên nói là khởi. Khởi tức
là bất khởi. Bất khởi chính là tánh khởi.” (T 1870:45. 580c5-8. Tuệ Sỹ
dịch).
Khởi tức bất khởi, sinh tức vô sinh. Vô sinh (anutpàda), một trong những ư
niệm căn bản nhất của Phật giáo Đại thừa, có thể diễn tả bằng những từ ngữ
tương đương, như Không (sùnyatà), vô tự tính (asvabhàva), bất nhị
(advaita), thực tế (bhùtakoti), Niết bàn (Nirvana), vô tướng (animitta),
vô nguyện (apranihita), v.v... Các nhà Đại thừa cho rằng “nhất thiết pháp
vô sinh” (tất cả sự vật là vô sinh) v́ lẽ đơn giản là khi tính cách hiện
hữu của một sự vật không thể khái niệm và nhận thức được, xa ĺa mọi h́nh
tướng ngôn ngữ, văn tự, và tâm duyên, duy chỉ nhờ vào cách tu đạo, dùng
trực quán mà thể nghiệm, thời không c̣n cách nào khác để mô tả sự hiện hữu
của sự vật ngoài cách gọi nó là vô sinh. Vô sinh tức là đă vượt qua thế
giới được kiến thiết bằng lưỡng nguyên tính. Nói đơn giản hơn, vô sinh
không thuộc phạm trù nào có chứa mâu thuẫn, đối đăi, và tương phản. Đương
lúc tất cả các sự vật duyên khởi sinh ra, nếu trực nhận chẳng thấy có chút
pháp nào sinh mà vẫn an trụ măi măi nơi pháp giới tính bất sinh bất diệt
thời đó là nhờ chứng được vô sinh pháp nhẫn. Đây là lúc Bồ tát bước vào đệ
Bát địa, gọi là Bất động địa. Trí Nghiễm sử dụng cấu trúc thể-dụng chỉ cho
thấy mỗi một pháp là một dụng của Phật, Phật hiểu theo nghĩa là thực tại
cứu cánh vô sinh, và giải thích trong danh từ tánh khởi, tánh là thể, là
Tâm địa và khởi là tướng hay dụng của Tâm địa.
Trong bản chuyên luận Vọng tận hoàn nguyên quán, Pháp Tạng dùng thí dụ
sóng và nước trong Khởi tín luận để mô tả quan hệ giữa Chân như và thế
giới hiện tượng. Pháp Tạng ví Chân như như tánh phản chiếu của đại hải. Do
gió cảnh thổi nên sóng thức nổi dậy. Đạt được ngoại cảnh vốn không thời
biển tâm tự vắng lặng. Tâm cảnh đều lặng thời việc ǵ cũng sáng tỏ, ví như
biển cả lặng gió thời vạn vật đồng loạt in bóng rơ ràng.
Nương thí dụ sóng và nước, nhân gió (duyên) mà sóng (hiện tượng) dấy khởi,
Pháp Tạng giải thích sự sinh khởi thế giới hiện tượng là do Chân như không
hoàn toàn ngưng nhiên tĩnh tại mà tùy duyên sinh khởi hiện tượng. Đó là
thuyết Chân như duyên khởi, c̣n gọi là Như Lai tạng duyên khởi hay tánh
khởi. Ở đây Pháp Tạng hiểu “tánh khởi” theo nghĩa 'lư sự vô ngại': Tánh
khởi chỉ vào tác dụng của Tâm (Lư) làm sinh khởi thế giới hiện tượng (Sự).
Như thế, thế giới hiện tượng là biểu tượng của Tâm, và v́ bản tánh của Tâm
là thanh tịnh, tự tánh thường trụ, nên do đó mà toàn thể thế giới hiện
tượng xuất sanh từ Không đúng theo quan niệm lư sự vô ngại.
Tuy nhiên, Pháp Tạng không xem thuyết Chân như duyên khởi là căn bản hợp
lư và thích ứng để tựa vào đó mà giải thích triết lư về Thiền. Lư do: Theo
thuyết này, Chân như hay Pháp giới, bản thể của vạn hữu, tuy là một toàn
thể cụ túc, tự tác tự thọ, tự tạo tự sinh, thế mà phải đợi duyên mới sinh
khởi hiện tượng. Lại nữa, thuyết này không cắt nghĩa được quan điểm nhận
thức phát xuất từ Thiền quán cho rằng vạn vật đồng nhất trên cơ bản và chỉ
hiện hữu trong thế tương giao vô tận. Trong Ngũ giáo chương, Pháp Tạng t́m
cách giải thích tại sao và như thế nào vạn hữu hiện khởi hỗ tương nhiếp
nhập vô ngại.
Trở lại với thí dụ sóng và nước, nên biết thêm rằng Nguyên Hiểu, một luận
sư người Triều Tiên, lưu ư chúng ta hai điểm. Một, gió vô minh không có
chỗ bắt đầu, bởi vậy không thể bảo rằng có một lúc nước ngưng nhiên tĩnh
tại trước khi chuyển động dậy sóng. Hai, toàn thể khối nước chuyển động
chứ không có khối nước nào bên dưới nằm yên mà chỉ có mặt nước bên trên
dậy sóng. Do đó, nước và sóng không rời nhau, động và tĩnh cùng một nguồn
(tánh ướt). Trong không gian thời tương tức, trong thời gian thời tương
nhập, nghĩa là đồng thời đốn khởi, hỗ tương y tồn. Hiểu như vậy tức là
nh́n Pháp giới theo một công thức mới, khác với lối nh́n theo cấu trúc
thể-dụng. Đó là công thức Một và Nhiều hỗ tức hỗ nhập, hay Một tức Tất cả,
Tất cả tức Một, mà Pháp Tạng t́m cách chứng minh. Quan niệm viên dung và
đồng khởi của vạn hữu gọi là thuyết Pháp giới Duyên khởi. Pháp giới Duyên
khởi là sự sự vô ngại pháp giới. Ưu thế của nó đối với lư sự vô ngại pháp
giới chính là do chứng nghiệm được thành phần là toàn thể, Một là Tất cả.
Danh từ Tánh khởi trong trường hợp Pháp giới duyên khởi chỉ vào sự hiện
khởi hỗ tương nhiếp nhập vô ngại của vạn hữu, của Chân như và thế giới
hiện tượng, của Pháp giới và Thế gian giới không cần ngoại duyên, đặc biệt
là không cần gió vô minh. Trong thế giới ánh sáng thời ánh sáng là nguồn
phát sinh ra chính nó.
Sự sự vô ngại pháp giới tương quan liên hệ như thế nào với tín, hành, và
chứng? Theo kinh Hoa nghiêm, từ tín thành tựu phát tâm tới viên măn Bồ đề
tâm Bồ tát phải trải qua 52 địa vị tu hành gồm có: Thập tín, Thập trụ,
Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, và Diệu giác. V́ Pháp giới
viên dung vô ngại nên 52 hạnh vị hỗ tương nhiếp nhập không ngăn ngại, và
mỗi hạnh vị vẫn giữ tính cách cá biệt của nó. V́ viên dung có nghĩa là
nhân gồm biển quả và quả thấu nguồn nhân cho nên giai vị thứ nhất tín
thành tựu sơ phát tâm đồng thời là giai vị chứng ngộ thứ 52, Diệu giác.
Tuy nhiên hành giả vẫn phải tu hành đầy đủ bốn phần, tín, giải, hành,
chứng, của Phật đạo gồm 52 hạnh vị ấy.
Để giải thích quá tŕnh 52 giai vị của Bồ tát, Tông Mật và Phổ Chiếu triển
khai thuyết Đốn ngộ tiệm tu theo tŕnh tự ba bậc, giải ngộ, tiệm tu, và
chứng ngộ. Giải ngộ là đốn ngộ ngay khi phát khởi Tổ tín, “Ta là Phật”.
Thuyết này được minh chứng bằng cuộc hành tŕnh cầu học của Thiện Tài Đồng
tử tŕnh bày trong Phẩm Nhập Pháp giới, phẩm cuối cùng của kinh.
Trong kinh Hoa nghiêm, hầu như trang nào cũng dính đến tín, nhưng có sáu
Phẩm được nói rơ là thuộc pháp hội Thập tín, hội thứ hai trong chín hội,
được giảng tại điện Phổ Quang Minh. Hội chủ là Bồ tát Văn Thù, Bồ tát của
Đại trí, tượng trưng cho nhân tu là ḷng thành tín chân thật và quả tu là
trí huệ Bát nhă. Sáu Phẩm ấy là: Phẩm 7: Như Lai Danh hiệu; Phẩm 8: Tứ
Thánh đế; Phẩm 9: Quang Minh Giác; Phẩm 10: Bồ tát vấn minh; Phẩm 11: Tịnh
hạnh; Phẩm 12: Hiền Thủ. Ba Phẩm 10, 11, và 12 luận bàn về tín trên quan
điểm giải, hành, và chứng theo tông chỉ Hoa nghiêm. Các Phẩm 7, 8, và 9
giải thích theo thứ tự thân, khẩu, và ư của đức Phật, nhấn mạnh sự giác
ngộ của đức Phật là nội dung của tín. Chủ điểm của ba Phẩm này là tín và
chứng bất tương ly. Nội dung của tín được tŕnh bày trong Phẩm 9.
Lư Thông Huyền phân tích Phẩm 9 như sau: “Phẩm này có tên là ‘Quang Minh
Giác’. Mục đích là thuyết minh nhân, mà ở đây nói về giai đoạn Thập tín,
từ dưới dấu bánh xe nơi bàn chân Như lai phóng ra ánh sáng rọi khắp mười
phương. Đầu tiên nói, một cơi Ba ngh́n đại thiên. Kế đến, rộng lớn thêm,
cho đến hư không giới pháp giới bất khả thuyết. Mục đích là thuyết minh về
vô tận, khiến cho những ai có tín tâm th́ tâm được mở rộng đến vô tận, vô
ngại, đồng đẳng với hư không giới pháp giới. Nói rơ Pháp thân, Trí thân
của chính ḿnh, cùng nguyện và hành, cũng đều đồng đẳng như vậy. V́ nơi
nào được ánh sáng rọi đến, nơi đó tín tâm được giác ngộ, khiến cho tu
hành. Do nhân duyên này mà tên của Phẩm được gọi là ‘Quang minh giác’.
Những ai tu hành, mỗi mồi dơi theo ánh sáng mà quán chiếu cả nười phương,
cho đến khi tâm năng quán cũng cùng tận, tức là đồng một thể với Pháp
thân. Vị đă nhập tín tâm, với sơ tâm nhập thập trụ, mỗi mỗi dơi theo ánh
sáng của mây, đèn, bảo sắc, quán nội tâm và các phương sở, một cách tổng
thể khiến cho tâm và cảnh không có trong, ngoài, trung gian, như vậy mới
có thể nhập phương tiện tam muội, đi vào cửa pháp Thập trụ. Nếu quán ánh
sáng của bảo sắc như vậy mà không thành tất cả biển nguyện của Phổ Hiền,
th́ cũng không thể thành thần thông lực, đại dụng của chư Phật.” (Hoa
nghiêm kinh luận. Tuệ Sỹ dịch).
Hào quang Phật phóng từ ḷng bàn chân diễn đạt pháp tu căn bản của hành
giả. Theo Phẩm 9, từ hai ḷng bàn chân Phật phóng ra trăm ức đạo hào quang
chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Cứ mỗi một cơi được chói sáng
thời có một chúng hội đạo tràng của Phật, và có vô số Bồ tát hiện ra tham
dự. Đứng đầu mỗi chúng hội ấy là ngài Văn Thù, người thay Phật trong pháp
hội này dạy đại chúng về pháp Thập tín, pháp khởi phát tâm bồ đề, một giai
vị quan trọng trong quá tŕnh thể nhập Pháp giới.
Theo Lư Thông Huyền, hào quang Phật phóng ra làm trổi dậy ḷng tin và thúc
đẩy tu hành. Như vậy, nội dung của tín là quang minh của đức Phật. Có tín
tâm thời thấy được quang minh của đức Phật chiếu vô tận, cùng hư không,
khắp pháp giới, tất cả thế giới ở mười phương. Do đó tâm được mở rộng đến
vô tận, vô ngại, đồng đẳng với hư không giới pháp giới, tất cả thế giới ở
mười phương. Đối với Lư Thông Huyền tín là thể nghiệm quang minh của đức
Phật, nội dung của tín, trong tam muội, và là điểu kiện để tu mười điều
hạnh nguyện rộng lớn của Phổ Hiền: “Một là lễ kính các đức Phật. Hai là
khen ngợi đức Như Lai. Ba là rộng sắm đồ cúng dường. Bốn là sám hối các
nghiệp chướng. Năm là tùy hỷ các công đức. Sáu là thỉnh đức Phật thuyết
pháp. Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời. Tám là thường học đ̣i theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi chúng sinh. Mười là hồi hướng khắp tất cả.” (Phẩm
40: Phổ Hiền hạnh. Kinh Hoa nghiêm. HT. Thích Trí Tịnh dịch) Giác ngộ được
như Phật chỉ khi nào trọn đủ các hạnh nguyện hải của Bồ tát Phổ Hiền. Các
hạnh nguyện hải của Bồ tát Phổ Hiền thành tựu viên măn chỉ khi nào có tín
tâm bất thối chuyển.
Kinh Hoa nghiêm thuật lại sự giác ngộ trong ba truyện khác nhau: giác ngộ
của đức Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), giác ngộ của Bồ tát Văn Thù, và giác ngộ
của Thiện Tài Đồng tử. Nói cách khác, kinh mô tả sự giác ngộ của một vị
Phật, một vị Bồ tát, và một người thường. Sự giác ngộ của đức Tỳ Lô Giá Na
được thuật lại là ở trong Bồ đề Đạo tràng ngồi dưới gốc bồ đề gần thành
Già da là nơi đức Phật Cồ Đàm thành đạo; sự giác ngộ của Bồ tát Văn Thù là
ở tại điện Phổ Quang Minh; và sự giác ngộ của Thiện Tài Đồng tử thời ở tại
Kỳ đà tịnh xá (Jetavana). Trong mỗi trường hợp đức Phật Cồ Đàm có mặt
nhưng im lặng nhập định. Ngài phóng hào quang chiếu khắp mọi nơi trong
khắp vũ trụ. Chư Bồ tát được tam muội quang minh của Phật chiếu đến liền
được nhập tam muội ấy. Tại sao Ngài không khai khẩu thuyết giảng? Đó là v́
đức Phật trong kinh không phải là đức Phật lịch sử hay triết lư mà là đức
Phật chứng nghiệm. Cảnh giới chứng nghiệm ở đây bao gồm quang minh của đức
Phật và trạng thái tam muội của Bồ tát, một cảnh giới mà hào quang bên
ngoài Phật chiếu và hào quang thanh tịnh của Chân tâm cùng phát ra và ḥa
nhập làm một. Móc xích nối quang minh của đức Phật và trạng thái tam muội
của Bồ tát là tín. Bởi vậy trong kinh, mỗi lần luận bàn về chứng ngộ thời
ngay sau đó có phần thuyết giảng về tín. Do đó mỗi một trong ba truyện
giác ngộ là một truyện về tín. Trong truyện giác ngộ thứ nhất của đức Tỳ
Lô Xá Na thời tín biểu tượng bởi biển hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền,
trong truyện thứ hai thời bởi trí huệ của Bồ tát Văn Thù, và trong truyện
thứ ba thời bởi sự phát tâm vô thượng Bồ đề của Thiện Tài Đồng tử do những
lời giáo huấn của Bồ tát Văn Thù. Trong mỗi một trường hợp, tín đồng nhất
thể với chứng.
Giáo lư đốn ngộ tiệm tu của Hoa nghiêm căn cứ trên Tổ tín biểu hiện qua
h́nh ảnh cuộc hành tŕnh cầu đạo của Thiện Tài Đồng tử được tŕnh bày
trong Phẩm 39: Nhập Pháp giới. Giai đoạn sơ khởi, Thiện Tài gặp Văn Thù,
được nghe thuyết pháp, phát tâm bồ đề, nhất tâm cầu đạo Bồ tát, và nói kệ
thỉnh giáo. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi chỉ dạy Ngài đi tham học với thiện trí
thức. Đồng tử Thiện Tài đi về phương Nam lần lượt tham phóng 53 vị thiện
trí thức, từ Tỳ kheo Đức Vân đến Bồ tát Di Lặc, nghe nhận được vô số pháp
môn cam lồ rộng lớn. Số đông học giả cho rằng các vị thiện trí thức Thiện
Tài tham bái tương ứng với các giai vị trong quá tŕnh tu chứng của Bồ
tát. Cuối cùng, Bồ tát Di Lặc bảo Thiện Tài đi t́m gặp lại Bồ tát Văn Thù
Sư Lợi. Đây là muốn nói lên ư nghĩa Văn Thù chẳng những là nguyên nhân
phát khởi hành tŕnh cầu học của Thiện Tài mà c̣n là thành quả của hành
tŕnh ấy. Hay nói cách khác, Văn Thù chẳng những là điểm khởi hành mà c̣n
là điểm đến cuối cùng của Thiện Tài. Do đó Văn Thù biểu trưng cả hai giai
vị, giai vị tín thành tựu sơ phát tâm và giai vị viên măn bồ đề tâm thể
nhập vào thực tại tối hậu Pháp giới. Như vậy, tín và chứng không hai trong
Hoa nghiêm.
Mặc dầu nhập tam muội ở giai đoạn sơ khởi Thiện Tài thật sự mới bắt đầu
cuộc hành tŕnh. Quá tŕnh tu chứng c̣n phải trải qua 52 giai vị, ở mỗi
giai vị mức độ tam muội thâm sâu hơn, tâm linh tiến hóa cải biến sâu đậm
thêm. Cứ như thế cho đến khi Thiện Tài bước tới giai đoạn Diệu giác, giai
vị thứ 52, cũng chính là giai vị đầu, nghĩa là Văn Thù, đức Phật Hoa
nghiêm của tín và trí.
Muốn thuyết minh giáo lư đốn ngộ tiệm tu biểu hiện qua h́nh ảnh cuộc hành
tŕnh cầu đạo của Thiện Tài thời phải nương theo pháp Thập tín của Hoa
nghiêm. Pháp môn này là nền tảng của Bồ tát đạo, là pháp khởi phát tâm Bồ
đề, do Pháp Tạng phỏng theo Nhiếp luận (Mahàyàna samgraha) chia tín ra
mười bậc tùy theo mức độ thâm sâu. Sau đây sơ lược pháp môn Thập tín Hoa
nghiêm.
1.- Tín. Vào giai đoạn đầu của giải phần khởi lên ḷng xác tín (sraddhà).
Tâm cương quyết phát khởi và chi tŕ ḷng xác tín.
2.- Niệm. Tu hành sáu sự tưởng nhớ: Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm
giới, Niệm Thí, và Niệm thiên.
3.- Tinh tấn. Ngay khi nghe Pháp Đại thừa, lập chí dơng mănh, chuyên tu
các thiện pháp, tâm không khiếp nhược.
4.- Định. Khi ngộ được đạo lư, ĺa khỏi mọi ảo ảnh tà kiến, đ́nh chỉ hết
thảy vọng tưởng phân biệt.
5.- Huệ. Ngay khi nghe pháp Đại thừa, luyện tập, quán chiếu thành thói
quen thấy được tánh Không của các pháp.
6.- Giới. Khi đă thọ lănh và khéo giữ giới hạnh Bồ tát thời thân, khẩu, ư
trở nên thanh tịnh, ít khi phạm lỗi lầm. Nếu phạm thời quyết ăn năn chừa
cải.
7.- Hồi hướng. Đem công đức tu hành của ḿnh hiến dâng cho toàn thể chúng
sinh.
8.- Hộ pháp. Giữ tâm không bị phiền năo và giữ ǵn không mất sự im lặng,
trí huệ, tỉnh thức, và tịch tĩnh.
9. Xả. Không quan tâm đến thân và của cải. Do đó, dứt trừ xả bỏ mọi chấp
trước.
10. Nguyện. Cố gắng tu hành không gián đoạn theo những thệ nguyện của
ḿnh.
Theo Thập tín Hoa nghiêm, trong trạng thái thể nghiệm tín, tâm không ngưng
nhiên tĩnh tại mà biến chuyển qua nhiều mức độ thâm sâu. Vào giai đoạn sơ
khởi tu pháp Thập tín, do quang minh của Phật chiếu rọi, tín thể nhập với
Phật tánh, Thiện Tài được nhập tam muội Lư Thông Huyền mô tả như trên.
Trong tam muội, tâm thức tiến hóa qua suốt các bậc Thập tín thâm sâu. Theo
Lư Thông Huyền, Phổ Chiếu, và nhiều luận sư về kinh Hoa nghiêm, mười tín
tự chúng biểu tượng toàn bộ 52 giai vị Bồ tát đạo. Như vậy, khi vượt lên
địa vị Thập tín của một Bồ tát sơ cơ, tiến thêm bước nữa thời đạt giai vị
thứ 11 là Phát tâm trụ, an trụ vững vàng trong chí nguyện Phật thừa, địa
vị đầu của Thập trụ tương ứng với giai vị thứ 52, Diệu giác. Nói cách
khác, giai vị thứ 11 biểu tượng sự chuyển biến tín tâm thành phát tâm.
Luận Khởi tín gọi đó là tín thành tựu phát tâm. Do đó, giai vị đầu của
Thập tín, giai vị đầu của Thập trụ, và cuối cùng, giai vị Diệu giác đều
tương quan liên hệ mật thiết. Trong Hoa nghiêm luận tiết yếu chú giải tập
Tân Hoa nghiêm kinh luận của Lư Thông Huyền, Phổ Chiếu viết:
“Tập sách này nói rằng trong Tam thừa, chứng ngộ cứu cánh đạt được chỉ sau
khi tu suốt qua mười bậc. Nhưng theo Nhất thừa của Hoa nghiêm thời sự
chứng ngộ của Phật đạt được ngay địa vị đầu của Thập tín. Nói theo giai vị
thời sự chứng ngộ đạt được ở giai vị thứ 11, địa vị đầu của Thập trụ. Nếu
nhập địa vị đầu của Thập tín thời không cần dụng công cũng nhập địa vị đầu
của Thập trụ. Nhập địa vị đầu của Thập trụ tất nhiên đạt được giai vị cuối
cùng (thứ 52). Trong trường hợp như vậy, điều thiết yếu nhất đối với một
người thường đang ch́m đắm trong bể khổ là phát khởi chánh tín ngay bước
đầu.”
Hiểu theo cách trên, toàn bộ 52 giai vị mô tả trong kinh Hoa nghiêm đơn
giản là biểu tượng nội dung của sơ tín. Ngay khi tín phát khởi, tất cả 52
giai vị lồng theo v́ chúng là nội dung của tín. Nhưng hành giả c̣n phải
tiệm tu làm tất cả mọi công hạnh của 52 giai vị. Tuy nhiên, những công đức
thắng diệu có nơi Bồ tát như đại bi, thệ nguyện, công hạnh, và các trạng
thái tam muội tất cả đơn giản chỉ là những mặt khác nhau của tác dụng duy
nhất là phát khởi sơ tín. Tín là điểm khởi hành của Bồ tát, là năng lực hộ
tŕ Bồ tát trên đường phát triển đạo nghiệp, và là điểm cuối cao trên hết
của cuộc hành tŕnh khai mở cửa Pháp giới, tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn, tức hạnh vị Diệu giác. Như vậy, tín trong Hoa nghiêm với nghĩa
Tổ tín là điểm bắt đầu, điểm ở giữa, và điểm cuối cùng của quá tŕnh tu
hành, có nghĩa là tín, hành, và chứng đồng nhất thể.
Nói tóm lại, theo Hoa nghiêm, nội dung của tín không ǵ khác là toàn pháp
giới viên dung vô ngại, trong đó tất cả là một và một là tất cả. Chung
cánh bản thẻ của tín là sự thể nghiệm tánh bất nhị, tức tánh Không hay
Chân như. Khởi tín, tín theo nghĩa Tổ tín, là thể nghiệm Ta là Pháp giới
duyên khởi. Trong phần cuối thi phẩm Tín Tâm Minh luận về ḷng tin, Tổ
Tăng Xán đề cập sơ qua Tổ tín trong Hoa nghiêm như sau (D. T. Suzuki,
Thiền luận. Tập thượng. Trúc Thiên dịch):
Tông này vốn tự tại
Khoảnh khắc là vạn niên
Dầu có không không có
Mười phương trước mắt liền.
Cực nhỏ là cực lớn
Đồng nhau, bặt cảnh duyên
Cực lớn là cực nhỏ
Đồng nhau, chẳng giới biên.
Cái có là cái không
Cái không là cái có
Ví chửa được vậy chăng
Quyết đừng nên nấn ná.
Một tức là tất cả
Tất cả tức là một
Quư hồ được vậy thôi
Lo ǵ chẳng xong tất.
Tín tâm chẳng phải hai
Chẳng phải hai tín tâm
Lời nói làm đạo đứt
Chẳng kim cổ vị lai.
H. D.
|