|
|
|
Về Những Minh Họa Từ
Thiền Uyển Tập Anh.
|
Tuệ Sỹ
Kể từ khi được Ông Trần văn Giáp
t́nh cờ phát hiện từ đống giấy vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó
được công bố bởi trường Viễn đông Bác cổ (Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en
Annam, dès origines jusqu’au XIIIe siècle. BEFEO XXXII, 1932. Bản dịch
Việt, Tuệ Sỹ: Phật giáo Việt nam, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII, Tu thư
Viện Đại học Van Hạnh, Saigon, 1968.), Thiền Uyển Tập Anh trở thành tư
liệu cơ sở cho các khảo cứu về lịch sử Phật giáo Việt nam từ khởi nguyên
cho đến thế kỷ 13, cũng như các sinh hoạt chính trị, xă hội, tôn giáo nước
ta trong suốt thời gian Bắc thuộc. Công tŕnh của ông Trần Văn Giáp dựa
trên tập sử Thiền này được thực hiện khá công phu, nhưng do thiếu nhiều tư
liệu tham khảo, đối chiếu để xử lư văn bản, do đó ông đă không tránh khỏi
một số sai lầm. Những sai lầm ấy được lặp lại trong hầu hết các quyển sử
Phật giáo Việt nam tiếp theo sau ông.
Trong năm 1973, Lê Mạnh Thát trong khi đi sưu khảo các tự viện ở miền Nam
đă phát hiện thêm các dị bản của Thiền uyển tập anh (Lê Mạnh Thát, Tổng
tập Văn học Phật giáo Việt nam, tập 3, NXB TP Hồ Chí Minh, 2002.). Y cứ
trên các phát hiện mới, công tác xử lư văn bản được thực hiện với rất
nhiều tư liệu liên hệ trong nền văn hiến đồ sộ của Phật giáo Trung quốc,
cũng như trong kho tàng lịch sử Viêt nam, từ dă sử đến chính sử, những
truyền kỳ. Một bản dịch tương đối hoàn chỉnh của Thiền uyển tập anh được
công bố, cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng khả dĩ bổ sung, và đồng thời
cải chính, những điều được ghi chép bởi các chính sử của Việt nam mà các
tác giả của chúng phần lớn dựa trên những thông tin đầy thành kiến và
xuyên tạc của sử liệu Trung quốc đối với sự h́nh thành ư thức dân tộc cũng
như sự phát triển chính trị xă hội của nước ta. Bản dịch san định do Lê
Mạnh Thát thực hiện này nhanh chóng trở thành văn bản cơ sở cho nhiều khảo
cứu lịch sử theo sau nó. Một bản dịch Anh ngữ cũng đă được thực hiện bởi
Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam. A Study and translation of the
Thiền Uyển Tập Anh, xuất bản năm 1997, bởi ban tu thư Viện Đại học Hawaii.
Công tŕnh nghiên cứu và dịch thuật này cũng thường xuyên tham chiếu bản
dịch của Lê Mạnh Thát, như nhận xét của Giáo sư Philippe Langlet, trong
phần thư mục của bản dịch Pháp mà chúng ta đang được giới thiệu hôm nay
(Philippe Langlet, Un livre des moines Bouddhistes; Les Editions Aquilon,
Paris, 2005.).
Thiền uyển tập anh theo thể loại là một tác phẩm thiền sử. Về h́nh thức,
nó tương tợ cách viết Cảnh đức Truyền đăng lục của Đạo Nguyên (Tống,
1004). Thế nhưng, Truyền đăng lục của Đạo Nguyên thuần túy là một thiền
sử, kư tải sự phát triển của Thiền tông từ khởi thủy của Phật giáo; trong
khi đó Thiền uyển tập anh ngoài sự kư tải các truyền thừa và phát triển
các ḍng thiền Việt nam, nó c̣n phản ánh khá rơ nét bối cảnh xă hội Việt
nam mà trường độ thời gian kéo dài trên dưới mười thế kỷ. Bài kệ thị tịch
của Khuông Việt (930-1011) sau đây có thể cho chúng ta thấy khá rơ nét về
điều này. Trước khi chết, Sư truyền kệ lại cho Đa Bảo rằng:
Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh (Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 203: Trong cây vốn có
lửa/ Có lửa, lửa mới bừng/ Nếu bảo cây không lửa/ Cọ xát do đâu bùng.).
Bản dịch Pháp của Philippe Langlet:
A l’origine, le feu est dans le bois,
Le feu originel renaît sans cesse.
S’il n’y a pas de feu dans le bois,
Comment pourrait-on en faire jaillir en le frottant?
[minh họa 49a]
Rơ ràng đây là một bài thơ ngắn mang ẩn dụ siêu h́nh. Nhưng nếu chúng ta
nh́n nó từ vị trí lịch sử của Khuông Việt trong liên hệ với các thế hệ đi
trước kể từ Định Không trưởng lăo (730-808); với các Thiền sư đồng thời
như Pháp Thuận (925-990), cũng như thế hệ tiếp nối theo sau là Vạn Hạnh
(?-1025), ngoài lớp vỏ tư duy siêu h́nh, bài thơ cho thấy sự tiếp nối ḍng
chảy liên tục và trưởng thành của ư thức dân tộc và một Nhà nước tự chủ
(Tuệ Sỹ, Những cuộc vận đông của Phật giáo Việt nam dưới triều đại nhà
Đường, Tạp chí Tư tưởng, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1972.). Nó mang nội dung
gần như đồng nhất với các dự ngôn hay sấm kư của Pháp Thuận và Vạn Hạnh về
sự xuất hiện của một nhân vật mà, qua dự ngôn của Pháp Thuận,
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh ( Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt nam, tập 2, tr.
498. NXB TP Hồ Chí Minh, 2001.).
Theo đó, một thời thịnh trị sẽ đến với đất nước sau nhiều thế kỷ bị đô hộ
và nô dịch.
Trong phần tiểu sử tác giả, Philippe Langlet không bỏ sót một chi tiết
trong cuộc đời của Khuông Việt, mặc dù theo một cách nh́n đó chỉ là một
câu chuyện hoang đường có vẻ không giúp ǵ cho sự lănh hội bài thơ được
dẫn dịch của Giáo sư Philippe Langlet, cũng như minh họa của Dominique De
Miscault. Thiền uyển tập anh chép, có lần Khuông Việt chiêm bao thấy
Tỳ-sa-môn Thiên vương (Vaiśravaṇa) xuất hiện và tự giới thiệu sứ mạng của
ḿnh rằng được Thiên đế (Śakra devendra) sai đến để bảo vệ quốc giới ngơ
hầu khiến cho Phật pháp được thịnh hành. Sáng hôm sau, do theo giấc mộng,
Sư vào núi t́m và thấy một cây to.
Từ cây bông gạo mà Trưởng lăo La Quư (852-936) trồng trước chùa Châu minh
(Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 284: “(La Quư di chúc) Ở chùa Châu minh ta
có trồng cây bông gạo để trấn chỗ, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra
đời…”), qua cây cổ thụ của Khuông Việt vừa đề cập, cho đến cây bông gạo
của Sư Vạn Hạnh bị sét đánh (Đại Việt sử kư toàn thư, tờ 31a7: sét đánh
cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp, để lại hàng chữ: Thọ căn niểu niểu,
mộc biểu thanh thanh, ḥa đao mộc lạc, thập bát tử thành. Theo chiết tự,
bài thơ tiên đoán nhà Lê mất, họ Lư lên thay.), nó là chuổi liên tục dự
ngôn về sự xuất hiện của Lư Thái Tổ. Sự kiện đó hoặc là sự thật lịch sử,
hay chỉ là hư cấu của ai đó muốn minh giải một biến cố xă hội hay một tín
điều tôn giáo, thế nhưng ảnh hưởng quần chúng của nó vẫn có thể được t́m
thấy rơ nét không chỉ trong Thiền uyển tập anh, mà c̣n trong các truyền kỳ
và kư tải của các sử quan triều đ́nh.
Chúng ta trở lại bài thơ của Khuông Việt với minh họa của De Miscault.
Mộc sinh hỏa, à l’origine, le feu est dans le bois, nguyên thủy, lửa vốn
ẩn tàng trong gỗ. Ngọn lửa ấy vốn hiền ḥa, hài ḥa trong nguyên lư ngũ
hành sanh khắc; nhưng khi nó bừng cháy để làm nên lịch sử văn minh nhân
loại, th́ nó cũng có cơ trở thành thảm họa. Qua ống kính của nghệ sĩ tạo
h́nh, Dominique De Miscault, ngọn lửa ấy không bốc thẳng lên theo chiều
thuận lư của Dịch lư phương Đông, mà nó quằn quại trong từng sớ gỗ dưới
một góc nh́n minh họa; nó chợt được thấy như bùng cháy từ hỏa ngục, từ một
mùa hỏa ngục của Rimbaud: Une Saison en Enfer. Nó bốc cháy từ tổ tiên
người Gaulois, thiêu rụi những đồng cỏ, lột da dă thú, rồi lần bước lịch
sử theo dấu chân của đoàn quân viễn chinh qua những ngă đường của châu Âu:
J’ai de mes ancetres gaulois… Les Gaulois étaient les écorcheurs de bêtes,
les brûleurs d’herbes les plus ineptes de leur temps…(Arthur Rimbaud,
Oeuvres, p. 196: Mauvais sang (Une Saison en Enfer). Pocket, Paris 2005.)
Tuy dấu chân của Rimbaud tiếp nối tổ tiên Gaulois lần bước xuống tận châu
Phi chứ không lần về phương Đông châu Á, nhưng người thưởng ngoạn ngôn ngữ
và minh họa của các tác giả Pháp, từ di ngôn, mà cũng là dự ngôn, của
Khuông Việt trước khi chết, muốn nh́n nó ngắm từ một ḍng chảy thuần khiết
trong nền văn học Pháp qua h́nh thái biểu hiện nhức nhối của ngôn ngữ đang
nói lên nỗi niềm khổ lụy hiện sinh. Đó cũng là góc nh́n mà chúng tôi mượn
tạm của nhà thơ Bùi Giáng trong một bức thư gởi Réné Char, những ḍng chữ
được viết từ băo tố chiến tranh đang tàn phá một đất nước, sát hại một dân
tộc: Nous pensons … à vous, Monsieur René Char, et aussi à un courant
discernable de pureté dans la litterature française … à travers
l’expression déchirante du malheur, oui, nous pensons à tout cela, en un
temps où l’ouragan s’abat sur notre pays et meurtrit notre peuple (Bùi
Giáng, Lettre à René Char, Dialogue, Lá bối, Saigon, 1965.).
Người thưởng ngoạn như vậy có thể đang cố ư chọn một điểm đứng và một thời
điểm để nh́n không theo cùng một hướng của nhà nghệ sỹ tạo h́nh, nhưng
trong không gian và từ thể tính của tồn tại th́ ưu tư khắc khoải về lẽ
sống nhân sinh và chiêm nghịêm những điều kỳ diệu trong sự vận hành của
thế giới vẫn âm vang một sự đồng cảm, mà chúng ta đọc thấy trong phần giới
thiệu bởi De Miscault: Le mélange d’angoisse et d’admiration devant le
mystère du monde a été vécu par toutes les civilisations… Nous pensons en
trouver un example dans les écrits des moines bouddhistes, notamment
vietnamiens sous la dynastie des Lư (Un livre des moines Bouddhistes:
Introduction.).
Các tác giả của Un livre des moines Bouddhistes đang t́m vào các thơ văn
của các Thiền sư đời Lư; không phải bằng những tư biện triết học, không
phải bằng những tư duy siêu h́nh, mà bằng ngôn ngữ h́nh ảnh, t́m kiếm và
ch́m lắng trong một thế giới tĩnh lặng, vô ngôn, ở đó thực tại tối hậu là
khoảng chân không thăm thẳm: la vacuité fondamentale de toute chose et
même de l’ultime réalité ( Ibid.).
Thực tại tối hậu là ǵ? Qu’est-ce que c’est? Đó là một câu hỏi rất thông
thường trong giao tiếp hằng ngày; nhưng lại là câu hỏi muốn vén bức màn kỳ
ảo của thời gian để nh́n sâu vào tính thể tồn tại. Vậy, yếu tính của tồn
tại, của cái đang được ném ra đó, là cái ǵ? Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088)
nói: Diệu tính hư vô bất khả phan. Yếu tính ấy, cái l’essence de l’être
ấy, là cái trống không mà nhận thức không thể nắm bắt, mặc dù bản chất của
ư thức là luôn luôn vươn đến nắm bắt đối tượng. Ở đây, Philippe Langlet
không phiên giải diệu tính trong bài thơ của Ngộ Ấn như là yếu tính của
tồn tại, mà hiểu nó là bản chất hay tự tính huyền nhiệm:
La mystérieuse nature du vide est inaccessible,
…
La mystérieuse nature đó có thể một thiên nhiên kỳ diệu, được sáng tạo từ
huyền nhiệm của Thượng đế; mà Thượng đế th́ siêu việt mọi tạo vật: Dieu
transcende toute créature (Catéchisme). Vậy, câu hỏi về thân phận con
người được nêu lên từ tư duy chiêm nghiệm về bản tính huyền nhiệm này, như
De Miscault đă dẫn từ Pascal: Qu’est-ce que l’homme dans la nature? Ta là
ai, con người là cái ǵ, trong thể giới này, trong bản tính huyền nhiệm
của tồn tại này? Câu hỏi xuất phát từ hai hướng Đông Tây bất đồng, như
trong cảm hứng để thử trả lời, ta có thể t́m thấy sự đồng cảm giữa Ngộ Ấn
và Pascal. Với Ngộ Ấn, con người không là ǵ cả, v́ tự tính của nó không
là ǵ cả. H́nh ảnh của cái không là ǵ cả ấy là đóa hoa sen c̣n thắm đượm
sương mai trong ḷ lửa đang rực cháy. Trống không, vô nghĩa, nhưng ngời
sáng: tồn tại chỉ có thể chiêm nghiệm trong mối quan hệ biện chứng được
kết cấu bằng những mâu thuẫn nội tại.
[minh họa 53a]
Trả lời của Pascal cũng âm vang đồng điệu. Ta không là ǵ cả. Tất cả mọi
tạo vật đều từ hư vô mà ra, tồn tại bao la ngang tầm vô hạn: Toutes choses
sont sorties du néant et portées jusqu’à l’infini. Con người là tồn tại vô
thể, là hư vô nếu được nh́n từ vô hạn. Trong vô hạn, nó không là ǵ cả.
Trong cái không là ǵ cả, nó là tất cả. Con người là một trung gian giữa
không là ǵ cả và là tất cả: Un néant à l’égard de l’infini, un tout à
l’égard du néant, un milieu entre rien et tout. Đồng điệu hay đồng cảm này
cũng được chia sẻ bởi một Thiền sư khác: Từ Đạo Hạnh (?- 1117), được
chuyển tải qua ngôn ngữ Pháp:
Existence. Le moindre grain de poussière existe.
Vide. Tout est vide.
Existence et vide, c’est comme la lune dans l’eau.
Ne vous attachez pas à l’existence ni à l’idée du vide.
Tồn tại và không tồn tại, có và không, hữu thể và hư vô, chứa vô biên
trong hạt cát, nắm vô hạn giữa ḷng tay; thể tính hư vô bừng sáng thành
hoa sen trong biển lửa; đó là những tư duy và phát biểu mang tính phản lư;
đồng thời đó cũng là sử tính của một dân tộc được hiện tượng hóa trong
chuỗi mâu thuẫn biện chứng của hiện thực lịch sử.
Ở đây, sử gia và nhà nghệ sỹ tạo h́nh, bằng ngôn ngữ của mâu thuẫn biện
chứng và bằng h́nh ảnh được thấy thường nhật để phản chiếu sinh hoạt tầm
thường mà luôn luôn biến động của đời sống thường nhật. Những cảm hứng từ
các h́nh ảnh này trong nhiều trường hợp dẫn người thưởng ngoạn đến những ư
tưởng đầy bất ngờ, vừa thống nhất vừa xung đột giữa những cái nh́n mà ta
quen nói là khác biệt Đông Tây, khác biệt thời đại. Một trường họp có thể
dẫn ra ở đây là bài thơ của Không Lộ, và h́nh ảnh minh họa. Trong bài thơ
này, ngôn ngữ Pháp đi rất gần với tiết nhịp của âm vận tiếng Việt, mặc dù
dịch giả không cố diễn dịch nó theo tiết nhịp thơ của ngôn ngữ Pháp:
Sur dix mille lieues le fleuve limpide, sur dix mille lieues le ciel.
Un village avec des mûriers, un village avec des fumées.
Le vieux pêcheur s’est endormi, personne ne l’applelle.
Passé midi il se réveille, la neige a rempli sa barque.
[minh họa 54a]
Toàn thể bài dịch Pháp c̣n phảng phất phong vận b́nh dị của đồng quê Việt
nam cũng như sinh hoạt của nó. Trong khi đó, trong nguyên văn Hán của bài
thơ, do âm luật nghiêm túc của Đường thi, mọi thứ trở nên trang trọng. Ngư
ông trong nguyên văn Hán mang phong thái tiêu dao của một ẩn sĩ. Ngư ông
trong bản dịch Pháp là một người dân quê trong cảnh đồng quê bận rộn nhưng
an nhàn. Ngư ông trong minh họa mang dáng vẻ của một con người sinh họat
trong xă hội văn minh công nghiệp đến từ phương Tây, đang vẩy tay chào đón
hoặc tiễn đưa, đứng giữa ḷng sông trong lớp bụi mờ ẩn hiện h́nh ảnh được
minh họa từ câu thơ của Ngộ Ấn: liên phát lô trung thấp vị can, La fleur
de lotus eclose dans un four est éternellement fraîche. Minh họa như thế
là nối liền quá khứ với hiện tại, một quá khứ lịch sử đầy bi kịch đă hay
đang đi vào quên lăng, với hiện tại của một xă hội đang biến chuyển để
chào đón hoàng hôn rực rỡ của trời Tây, La Crépuscule de l’Occident
(Spengler).
H́nh ảnh ngư ông trong minh họa t́nh cờ khiến chúng ta nhớ lại bóng dáng
của Bùi Giáng đang đi giữa phố phường hoa lệ Saigon mà như đi giữa hoang
tàn sa mạc, điên loạn trong cơn điên loạn siêu h́nh của Nietzsche. Thế
rồi, trong phút tỉnh táo, nhà thơ của chúng ta bất chợt thốt lên những lời
trầm thống, vang vọng ưu tư khoắc khoải lan dài trong lịch sử. Đó là những
lời mà Bùi Giáng đă viết cho René Char: Voici la réponse que vous en donne
le Viet nam: Weil (Simone Weil), c’est une de ces âmes assez rares qui
sont venues en ce monde pour un temps bien bref, qui s’en sont allées
brusquement, laissant derrière elles de regrets; des âmes qui se sont
penchées sur la souffrance de siècles, qui nous ont apporté des promesses
de fontaines sonores, qui nous ont parlé des peuples lointaines et de leur
pulsation blessée, qui ont posé le problème des déshérités de l’Asie.
H́nh ảnh một Simone Weil nhỏ thó, gầy ṃn, một tâm hồn nhạy bén trước khốn
cùng của những con người khốn khổ, một ư chí ngoan cường, bướng bỉnh của
một cô giáo trẻ; h́nh ảnh ấy không chỉ là biểu tượng cho sự trổi dậy của
tầng lớp yếu ớt trong bối cảnh xă hội hùng cường, phú thịnh của phương
Tây; h́nh ảnh ấy một thời đă làm xao xuyến tuổi trẻ Viêt nam lớn lên giữa
khói lửa, đang lắng nghe âm vang từ nhịp đập của trái tim mang chứng tích
đầy thương tích của lịch sử văn minh, âm vang từ những suối nguồn xa xôi
mang những ước nguyện nhân bản đến cho các dân tộc, đặt vấn đề cho những
con người đang bị bứt ĺa truyền thống.
Khi một tâm hồn bị bứt ĺa truyền thống, nó như một con thuyền lơ lửng
trôi xuôi theo định hướng mù khơi ngoài phương trời vô định; trôi ngang
qua bà mẹ đang đứng sững quay lưng hờ hững với con thuyền, đang dơi mắt
t́m vào bến bờ của quá khứ, của cây đa bến cũ, con đ̣ năm xưa mà nay đă
vắng, đă mất. Thế nhưng, trong thể tính uyên nguyên của ḍng sông lịch sử,
mảnh trăng treo từ trên đỉnh Lăng-già đang tỏa ánh sáng trầm tịch trong
khoảng không vô tận, cho con thuyền định hướng ra biển khơi:
…
Dans le grand calme du clair de lune sur la montagne de Lanka,
Devant le vide pour un bateau qui s’avance en pleine mer,
…
[minh họa 56a]
Minh họa này từ bài thơ của Tăng thống Huệ Sinh (?- 1076), thế hệ tiếp nối
Thiền sư Vạn Hạnh, vốn là minh giải triết học cho vua Lư Thái Tông, ngẫu
nhiên phản chiếu tâm t́nh lịch sử trải dài suốt gần mười thế kỷ, qua những
minh họa mà chúng ta biết được cảm hứng một phần từ tín điều Catéchisme
như được nói rơ trong bài giới thiệu do Dominique De Miscault.
Suy nghĩ từ những ḍng ngôn ngữ Pháp chuyển tải những tư duy uẩn khúc của
tư tưởng, như những mặt gương khi mờ khi tỏ, phản chiếu mấy đoạn đường
quanh co khi thăng khi trầm của lịch sử; chiêm quan những h́nh ảnh minh
họa cấu h́nh bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại mà thể tính là những
nguyên lư, những công thức cứng đọng, khô cằn của lư trí hướng ngoại và
chinh phục; người đọc và người xem để cho tâm hồn ḿnh di động bất thường
giữa những cảm hứng ngẫu nhiên, hoặc trần thuật tiên cảm; từ đó quay nh́n
lại những đoạn lịch sử đă qua, trải dài suốt trên hoặc dưởi mười thế kỷ;
những lộ tŕnh riêng biệt, với những định hướng và định mệnh khác biệt, ở
hai phương trời cách biệt; những con đường lịch sử ấy có khi được thấy
song song, có khi đối nghịch dẫn đến sông núi ngửa nghiêng, đảo lộn, áp
bức, đọa đày, chiến tranh, giết chóc; có khi ḥa quyện trong nỗi đau
thương chung của thân phận con người. Nhưng dù ở bên này hải đảo, hay bên
kia đại dương, mà trong cơi tịch mặc vô ngôn, trong thế giới mặc nhiên vô
hạn, với những điều nói được và không nói được, những h́nh ảnh kư họa được
hay không kư họa được, giữa người và người, giữa các dân tộc dị biệt,
trong các truyền thống và văn minh tương phản, vẫn c̣n ẩn tàng trong tận
đáy sâu, trong rung cảm đồng điệu của những trái tim nhân hậu. Chúng tôi
muốn nói, từ những chuyển tải bằng ngôn ngữ Pháp thực hiện bởi Giáo sư
Philippe Langlet, từ những minh họa bằng kỹ xảo của lư trí tư biện phương
Tây bởi nghệ sĩ tạo h́nh Dominique De Miscault, chúng ta thử t́m lại dấu
vết tâm tư của tiền nhân, thử nh́n lại chính ḿnh từ đôi mắt của những
người khác, để tự khẳng định chính ḿnh trong những cơn lóc thời đại.
Xin cảm ơn các tác giả đă đến với chúng ta trong đồng cảm nhân loại, cùng
chia sẻ những giá trị phổ quát giữa những truyền thống dị biệt.
T.S.
|
|
Thiền Uyển Tập Anh, bản (tuyển) dịch Pháp, Un Livre Des Moines Bouddhistes
Dans Le Vietnam D’autrefois, của Giáo sư Philippe LANGLET, minh họa
Dominique De MISCAULT, nhà xb Aquilon, Paris, 2005. Lễ giới thiệu tác phẩm
và trưng bày ảnh minh họa tại Tp. HCM, ngày 20/1/2006, tại Viện NCPH Việt
Nam, 750 Nguyễn Kiệm, Q. Phú nhuận. – BBT. |
|