TRIẾT HỌC THẾ THÂN
Tái Khảo Sát Về Sự Tri Nhận
Lê Mạnh Thát
(V́ giới hạn của fonts, một số âm từ trong ngữ Sankry ở phần phụ chú
(...) đă không tŕnh đúng dạng theo nguyên tác, kính xin Chư Tôn và Độc
Giả hoan hỉ khoan dung)
Chúng ta đă phác thảo đại cương sự phát triển các thuyết luận lư của Thế
Thân mà đỉnh cao của nó là việc khẳng định giá trị của một chứng cứ phụ
thuộc tính liên quán của nó hơn là sự liên hệ đến một thực thể
ngoài-luận-lư, như đă được diễn đạt qua những ǵ sau này được biết đến là
thuyết lan truyền nội tại. (Supra vide: 160-161. Ở đây cần nói thêm rằng
mặc dù Siddhasena Divākara h́nh như là nhà luận lư học đầu tiên sử dụng từ
“lan truyền nội tại”, antarvyāpti, nhưng điều này không nói lên được nguồn
gốc thuộc Kỳ Na giáo của nó, bởi v́ không chỉ quan niệm ‘lan truyền nội
tại’ đă bắt nguồn từ chính Thế Thân, như đă nói, mà thêm vào đó đă không
có một tác phẩm nào thuộc Kỳ Na giáo bàn riêng về vấn đề này. Trái lại,
chính trong truyền thống luận lư Thế Thân mà một tác phẩm như thế đă được
t́m thấy. Đó là Antarvyāptisamarthana của Ratnākaraśānti mà bản Phạn của
nó đă được Harprasāda xuất bản trong Six Buddhist Nyāya Tracts, Calcutta:
Bibliotheca Indica Series, 1910.)Thuyết này thực sự khiến cho luận lư của
Thế Thân trở thành một luận lư chính thức trong ư nghĩa đầy đủ nhất của nó
và có thể viết chính xác ở dạng
(x) [A(h,x) ===> A(s,x)]
Với mọi x như A(h,x) th́ A(s,x) có thể được chứng thực theo các điều kiện
do chính A(h,x) đặt ra chứ không do bất kỳ cái ǵ khác. Đây là một trong
những kết quả rất quan trọng mà triết học từng đạt đến và cho thấy rơ tính
chất tối ưu của triết học Thế Thân, không chỉ v́ nó góp phần thiết lập một
phương pháp dễ dàng và đơn giản để định được tính chất đúng và sai của một
lập luận, mà c̣n v́ khả năng mở rộng phạm vi tính khả minh trong toàn bộ
nội dung biện luận của một ngôn ngữ được cho. Như vậy, trong ngôn ngữ
thông thường cũng như chuyên môn, ta có thể nói về cái vô hạn và tương tự
mà không cần phải xác định chúng như là bất kỳ loại thực thể nào cả, huống
hồ phải quan sát hay tri nhận hay diễn dịch chúng thành một loại dữ
liệu tri giác nào đó. Phạm vi tính chất khả minh của luận lư của Thế Thân
trở thành một luận lư chính thức trong ư nghĩa đầy đủ nhất của nó và có
thể viết chính xác ở dạng
(x) [A(h,x) ===> A(s,x)]
Với mọi x như A(h,x) th́ A(s,x) có thể được chứng thực theo các điều kiện
do chính A(h,x) đặt ra chứ không do bất kỳ cái ǵ khác. Đây là một trong
những kết quả rất quan trọng mà triết học từng đạt đến và cho thấy rơ tính
chất tối ưu của triết học Thế Thân, không chỉ v́ nó góp phần thiết lập một
phương pháp dễ dàng và đơn giản để định được tính chất đúng và sai của một
lập luận, mà c̣n v́ khả năng mở rộng phạm vi tính khả minh trong toàn bộ
nội dung biện luận của một ngôn ngữ được cho. Như vậy, trong ngôn ngữ
thông thường cũng như chuyên môn, ta có thể nói về cái vô hạn và tương tự
mà không cần phải xác định chúng như là bất kỳ loại thực thể nào cả, huống
hồ phải quan sát hay tri nhận hay diễn dịch chúng thành một loại dữ liệu
tri giác nào đó. Phạm vi tính chất khả minh của chúng, tức phạm vi chúng
được liễu giải và biện luận, nằm ở sự kiện chúng được định nghĩa và chứng
thực là nhất quán trong nội dung được cho của nó. Tuy nhiên, một khi một
thuyết như thế được thiết lập th́ vấn đề vị trí của tri nhận trong tương
quan với nó tức th́ xuất hiện, bởi v́ phần đông đều giả định rằng nền tảng
của bất cứ lư thuyết nào rốt cùng cũng phải là sự thực khách quan được
phơi bày trước ư thức của con người, và để cho sự thực khách quan đó được
nhận thức th́ phải tồn tại quan hệ nào đó giữa nó và chủ thể, tức cái
thường được gọi là sự tri nhận và tương tự. V́ thế, khi dạng
(x) [A(h,x) ===> A(s,x)]
được viết ra th́ một điều tất yếu là nó kéo theo một sự tái khảo sát cần
có về các quan hệ tri nhận này. Và đây là những ǵ thật sự xảy ra trong
các chiều hướng tư tưởng của Thế Thân.
Trong Câu Xá Luận, Thế Thân phát biểu rơ ràng rằng “tri nhận là phương
tiện quyết định nhất của nhận thức” (Abhidharmakośa IV ad 2d, LVP: 5) một
quan điểm mà ông vẫn kiên quyết duy tŕ trong Vādavidhi,(Vādavidhi,
Fragment 20a-20b) trong đó cũng là lần đầu tiên vấn đề tri nhận là ǵ được
định nghĩa chính xác. V́ thế, nếu ta có thể mô tả ông đă tiếp tục tái khảo
sát thuyết tri nhận như thế nào ngay sau những khám phá luận lư của ông và
để có thể đánh giá đúng sự tái khảo sát đó trong quan điểm luận lư của ông
th́ định nghĩa được đề ra trong Vādavidhi phải là điểm khởi đầu của chúng
ta. Nó được diễn đạt như sau:
Tri nhận là một nhận thức chỉ từ tự thân đối tượng. Khi một nhận thức sinh
khởi chỉ do đối tượng mà nó được đặt tên bởi đối tượng đó chứ không phải
do cái ǵ khác, th́ nhận thức này là sự tri nhận. Với định nghĩa này,
những nhận thức sai bị loại bỏ, thí dụ nhận thức về xa cừ như là bạc, bởi
v́ nhận thức này được đặt tên bởi bạc là nhận-thức-bạc, nhưng lại không
sinh khởi nhờ vào bạc; đúng hơn, nó được kích khởi nhờ vào xa cừ. Một nhận
thức quy ước cũng được loại bỏ bởi định nghĩa này, bởi v́ một nhận thức
như thế được gọi tên là ‘nhận thức về những cái b́nh’, v.v., nhưng không
khởi do những cái b́nh đang thật sự tồn tại, mà đúng hơn là do các vị trí
nằm kề nhau của cái được nh́n thấy hay xúc chạm được diễn dịch là b́nh. Tự
thân những cái b́nh không thể nào sinh khởi nhận thức này, bởi v́ [qua sự
phức hợp của chúng] chúng là huyển ảo và như vậy không thể dùng làm điều
kiện. Sau cùng, nhận thức bằng suy luận cũng được loại bỏ bởi định nghĩa
này, v́ một nhận thức như thế xảy ra nhờ vào nhận thức về khói và sự nhớ
lại về sự nối kết bất khả phân của nó với lửa, chứ không phải nhờ vào lửa.
Cái mà chỉ từ đó nhận thức sinh khởi, và không sinh khởi, được xem là một
đối tượng trong đoạn văn này.
(Vādavidhi, Fragment 9: don de las mam par
ses pa mon sum zes pa/ yul gan gis mam par ses pa tha sñad bya ba de kho
na las gal te de shye zin gzan las ma yin la/ de las gzan las kyan ma yin
pahi ses pa de mñon sum ste/ dper na gzugs la sogs pahi ses pa dan bde ba
la sogs pahi ses pa bszin zes paho// hdis ni hkhrul pahi ses pa bsal te/
dper na ña phyis a rdul gyi ses pa lta buho// de ni dnul gyis dnul gyi ses
paho zes tha sñad byed la de dnul las skye ba yan [ma] yin gyi/ na phyis
kho nas de bskyed par bya baho// kun rdzob pahi ses pa yan hdis gsal te/
de ltar ni bum pahi śes pa [bum pahi ses pa] zes pa hdi ltar de bum pa la
sogs pa rnams kyis tha sñas bya zin/ de de rnams las hbyun ba ni ma yin
te/ de rnams ni kun rdzob tu yod pa ñid kyis rgyu ma yin pa ñid kyi phyir
ro/ gzugs la sogs pa de ltar yan dag par zen pa rnams kho na las de hbyun
no/ rjes su dpag pahi ses pa yan hdi kho nas bsal te/ du bahi śes pa dan
hbrel pa dran pa dag las kyan de byun gi me kho na las ma yin pas so// de
las hbyun ba kho na ste/ mi hbyun ba ni ma yin no zes pa hdi yan hdir don
du mnon par hdod do//.)
Chúng tôi trích dẫn nguyên văn định nghĩa mở rộng
này, bởi v́ nó đưa ra nhiều chứng cứ thú vị không những đối với quan điểm
về nhận thức của Thế Thân ở trong Vādavidhi mà c̣n đối với một số hàm ư
hấp dẫn về các thuyết luận lư của ông trong đó. Như vậy, ta có thể dẫn,
thí dụ lời bàn của ông về cái gọi là “nhận thức quy ước”, trong đó thuyết
về số của ông thật sự được mô tả chi li và tân tiến đến lạ lùng. Ông nói
rằng ta có thể có nhận thức về những cái b́nh, không phải qua chúng như là
một thực thể, mà như là một số các vật thể riêng rẽ nằm kề nhau. Phát biểu
này ám chỉ hai điều: thứ nhất, có một phức số của những cái b́nh, tức “số
lượng các số từ 1 đến bất kỳ số được cho n nào là số lượng được cho đó”,
và thứ hai, phức số đó không được định nghĩa như một thực thể “đang thật
sự tồn tại”, mà chỉ là một tổ hợp các vật thể trong đó một tổ hợp các số
được sử dụng, mỗi cái chỉ xảy ra một lần, và “số lượng các số được dùng
như những tên gọi th́ cũng bằng số lượng các vật thể.”
(B. Russell, Our
Knowledge of the External World, London, Allen & Unwin, 1949: 193; và The
Principles of Mathematics, London, Allen & Unwin, 1956: 121-123.)
Hai đặc
tính này nay được xem như hai khái niệm cơ bản để định nghĩa thuyết về số
và nếu không có chúng th́ không thể thực hiện được điều này cho nên chúng
đă được nghĩ đến từ lâu. Tương tự, tŕnh bày của ông về bản chất của suy
luận qua sự tri nhận về mối quan hệ giữa các hạng mục được cho nào đó
trong một biểu đồ đă cho chúng ta một cái nh́n thú vị về tư duy này đối
với tiến tŕnh lư luận và phát biểu luận lư. Như vậy, những điểm này và
các điểm khác xuất hiện trong đoạn dẫn trên có liên quan đến tư tưởng Thế
Thân nói chung, nhưng chúng ta sẽ không xét đến ở giai đoạn này. Thay v́
thế, trước tiên chúng ta sẽ bàn đến định nghĩa của ông về tri nhận là ǵ.
Theo định nghĩa trên, “tri nhận là một nhận thức chỉ từ tự thân đối
tượng”, có nghĩa là “khi một nhận thức sinh khởi do đối tượng mà nó được
đặt tên bởi đối tượng đó, chứ không phải do vật ǵ khác, th́ nhận thức này
là sự tri nhận”. V́ vậy, tri nhận được định nghĩa qua đối tượng của sự tri
nhận mà không qua bất kỳ vật ǵ khác. Đây là một trong những đặc điểm nổi
bật của thuyết tri nhận của Thế Thân, và như sẽ thấy, nó có tác động quyết
định nhất đối với sự phát triển xa hơn của nó. Nếu vậy, câu hỏi tự nhiên
đặt ra là đối tượng là ǵ. Thế Thân trả lời điều này ở cuối đoạn dẫn: “Cái
mà chỉ từ đó nhận thức sinh khởi, và không sinh khởi, được xem là một đối
tượng”.
Như vậy, rơ ràng đối tượng được định nghĩa là bất cứ cái ǵ phát khởi một
nhận thức. Thế nhưng một định nghĩa như thế về đối tượng hiển nhiên không
đủ để chỉ rơ các điều kiện đúng trong đó một vật thể có thể được xem như
một đối tượng của tri nhận mà không phải là một đối tượng của bất kỳ hoạt
động tinh thần nào khác. Khuyết điểm này chẳng bao lâu đă được chính Thế
Thân nhận ra.
Trần Na cho ta biết rằng “trong Vādavidhāna, một số điều đă được giải
thích khác hẳn” bởi Thế Thân so với những ǵ ở trong Vādavidhi. Trần Na đă
dành trọn một phần trong Pramānasamuccaya để phê phán những điều này,
trong đó ông c̣n đi xa hơn khi nói rằng “Vādavidhi không phải là tác phẩm
của Sư Thế Thân, hoặc Sư đă thừa nhận rằng cốt tủy của tư tưởng Sư không
được giảng giải trong đó.” (Dignāga, Pramānasamuccaya I: 16a5-6.) Không
may là chúng ta chẳng biết ǵ về “một số điều đă được giải thích khác hẳn”
bởi Thế Thân và ông đă phê phán định nghĩa tri nhận của chính ông như thế
nào trong Vādavidhāna, bởi v́ trong các mảng c̣n giữ được của tác phẩm sau
không có ǵ liên quan đến vấn đề được nói đến. Tuy nhiên, nhờ các phê phán
của Trần Na, chúng ta biết rằng nếu định nghĩa tri nhận nói trên có thể
được chính Thế Thân đánh giá th́ nó phải được đánh giá trên các cơ sở sau.
Thứ nhất, về cách dùng chữ không rơ ràng của định nghĩa, Trần Na chỉ ra
rằng phát biểu “tri nhận là một nhận thức chỉ từ tự thân đối tượng” có thể
diễn giải khác nhau: hoặc tri nhận là một nhận thức từ bất kỳ đối tượng
nào, hoặc tri nhận là một nhận thức chỉ từ đối tượng đó. Trong cả hai
trường hợp, nó đều không phải là định nghĩa thỏa đáng, bởi v́ nếu là
trường hợp đầu th́ có thể lập luận rằng tri nhận lúc đó bị lẫn lộn với các
hoạt động tinh thần khác như sự nhớ lại hoặc sự ưa thích vốn cũng có đối
tượng riêng của chúng; và nếu là trường hợp sau th́ nó không phải là một
định nghĩa đúng bởi lẽ ngay cả trong sự tri nhận người ta cần đến không
chỉ một đối tượng mà là nhiều hơn để có được tri nhận về đối tượng đó
(Dignāga, Pramānasamuccaya I: 16a7-b2.)
Thứ hai, về tính chất mơ hồ của
khái niệm về đối tượng, chúng ta đă thấy Thế Thân thử định nghĩa đối tượng
là ǵ. Nhưng nói rằng đối tượng là “cái từ đó nhận thức sinh khởi, và
không sinh khởi” th́ chẳng phải là định nghĩa ǵ cả, như Trần Na đă nhận
ra. Ông nói rằng “ta nên nói rơ đối tượng của nhận thức có nghĩa là ǵ, có
phải nó là cái mà nhận thức sinh khởi cùng với các tướng trạng của nó, hay
nó là những sự vật ‘như chúng là’ làm nhân cho nhận thức, mặc dù chúng
phơi bày trước nhận thức một tướng trạng khác với tự thân chúng”(Dignāga,
Pramānasamuccaya I: 16b3.) Sau khi nêu ra hai trường hợp trên, Trần Na
tiếp tục chỉ ra rằng không có trường hợp nào khả quan cả. Bởi v́ trong
trường hợp đầu, đó là nhận thức về h́nh dạng của tự thân đối tượng mà
không phải đối tượng, bởi v́ đối tượng là những ǵ tạo thành nó, cái mà
theo quan điểm của Trần Na cũng như Thế Thân là các nguyên tử; trong
trường hợp sau, nếu đó là nhận thức về đối tượng ‘như nó là’, tức về các
nguyên tử tạo thành đối tượng, th́ đó là nhận thức về các nguyên tử chứ
không phải về đối tượng mà nhận thức được đặt tên bởi đối tượng đó.
(Dignāga, Pramānasamuccaya I: 16b47.)
Và cuối cùng là tính chất hàm hồ của
chính định nghĩa: “nếu một nhận thức sinh khởi chỉ do đối tượng mà nó được
gọi tên theo đối tượng đó chứ không phải bất cứ cái ǵ khác th́ nhận thức
này là một tri nhận”. Nhưng, như thế nào là một nhận thức được gọi tên
theo đối tượng? Theo lối nào? Bằng cách ǵ? Và như Trần Na nhận xét, “Một
nhận thức không thể được đặt tên nếu không có liên hệ đến thực chất của
đối tượng của nó.”(Dignāga, Pramānasamuccaya I: 17a1-3.) Và thực chất của
đối tượng, như chúng ta đă thấy, không được Thế Thân định nghĩa trong đoạn
dẫn trên.
Qua sự phân tích có phê phán của Trần Na ở trên, ít ra ta cũng có thể có
một ư tưởng nào đó về vấn đề Thế Thân có thể đă thấy và phân tích định
nghĩa về tri nhận của Vādavidhi như thế nào ở trong tác phẩm sau đó của
ông là Vādavidhāna. Nhưng sự phân tích có phê phán này không phải là giải
đáp cho câu hỏi tri nhận là ǵ, mặc dù nó có thể dùng làm cơ sở cho sự tra
cứu thêm. Thật ra, từ những ǵ sẽ được nói, chính những câu hỏi xoay quanh
định nghĩa tri nhận được đề ra trong Vādavidhi đă góp thêm vào yêu cầu
giải quyết dứt điểm tất cả những khó khăn dai dẳng về chúng, một yêu cầu
mà Thế Thân đă cảm nhận được trong cấu trúc luận lư của ông. V́ vậy, dù
rất khó khăn, nếu không phải là không thể thực hiện được, để phát biểu rơ
ràng có phải chính những câu hỏi này chứ không phải các thuyết luận lư của
ông đă thúc đẩy ông tái khảo sát quan điểm của ḿnh về tri nhận hay không,
chúng ta vẫn có thể chắc chắn rằng trong cả hai trường hợp th́ chính các
tác phẩm luận lư của ông, nhất là Vādavidhi, đă đặt nền tảng phát triển
cho nhiều quan điểm sắp được đề ra của ông. Và điều này có thể dễ dàng
nh́n thấy trong Nhị Thập Tụng.
Trong luận thư này, Thế Thân khởi đầu bằng cách cố gắng định nghĩa một
cách minh nhiên những ǵ ông ám chỉ qua từ ngữ “đối tượng của tri nhận”.
Và rồi, ông cố chứng tỏ làm thế nào một thuyết về tri nhận phải được thiết
lập với một quan điểm như thế về đối tượng. Kết quả, dù Vādavidhi đă không
c̣n đối với mục đích hiện tại của chúng ta, chúng ta vẫn có thể dựa vào
Nhị Thập Tụng để xem Thế Thân điều động việc tra cứu của ông như thế nào
đối với vấn đề tri nhận.
Nhị Thập Tụng bắt đầu với luận đề “Một nhận thức không thuộc về đối
tượng”, một điều khiến cho các đối thủ ông phản ứng ngay: “nếu một nhận
thức không thuộc về đối tượng, th́ không có sự xác định về thời gian và
nơi chốn, cũng không có xác định về ḍng tâm, và kết quả của một hành động
th́ không được xác minh” (Vimśatikā ad 2.) Thế Thân giải thích thêm ư
nghĩa của phản ứng này. Ông nói:
Điều đó có nghĩa ǵ? Nếu một nhận thức về sắc, v.v., mà không có một sắc,
v.v., làm đối tượng, được tạo ra từ những ǵ không phải là một đối tượng
như sắc, v.v., th́ tạo sao nó được tạo ra ở một chỗ như thế-như thế mà
không phải khắp mọi nơi? Và tại sao ngay ở chỗ đó nó lại được tạo ra vào
một thời điểm nào đó mà không phải mọi lúc? Và nó được tạo ra trong ḍng
tâm của tất cả những ai có mặt ở chỗ đó vào lúc đó chứ không chỉ trong
ḍng tâm của một người trong số họ, như trong trường hợp sự xuất hiện
những sợi lông chỉ xảy ra trong ḍng tâm của những ai bị tác động của bệnh
mắt mà không phải trong ḍng tâm của những người khác? Tại sao những sợi
lông, những con ong, v.v., được những người bị bệnh mắt nh́n thấy lại có
tác dụng như những sợi lông, v.v., mà không có tác dụng như những cái
khác? Đồ ăn, đồ uống, áo quần, thuốc độc, cánh tay, v.v., mà một người
nh́n thấy trong giấc mơ đều không có ảnh hưởng đến tác dụng của đồ ăn,
v.v., trong khi ở những trường hợp khác th́ không phải như vậy? Thành phố
được hóa hiện, do tính chất không tồn tại của nó, không ảnh hưởng đến tác
dụng của một thành phố, trong khi ở những trường hợp khác th́ không phải
như vậy? V́ thế, [nếu một nhận thức không thuộc về đối tượng] sự xác định
về nơi chốn và thời gian, sự không-xác định về ḍng tâm và kết quả của một
tác dụng th́ không được xác minh.
(Vimśatikā p. 3: kim uktam bhavati/ yadi
vinā rūpādyarthena rūpādivijñaptir utpadyate na rūpādyarthāt/ kasmāt
kvacid deśa utpadate na sarvatra/ tatraiva ca deśe kadācid utpadyate na
sarvadā/ taddeśakālapratisthitānām sarvesām samtāna utpadyate na kevalam
ekasya/ yathā taimirikānām samtāne keśādyābhāso nānyesām/ kasmād yat
taimirikaih keśabhramarādi drśyate tena keśādyābhāso nānyesām/ kasmād yat
taimirikaih keśabhramarādi drśyate tena keśādikriyā na kriyate na ca
tadanyair ba kriyate/ yad annapānavastravisāyudhādi svapne drśyate
tenānnādikriyā na kriyate na va tadanyair na kriyate/
gandharvanagarenāsattvāt nagarakriyā na kriyate na ca tadanyair na
kriyate/ tasmād asmād arthābhāve deśakālaniyamah samtānāniyamahkrtyakriyā
ca na yujyate//.) (phần II) (phần III)
dịch Việt: Đạo Sinh
(trích đăng từ Tập San Nghiên Cứu Phật Học số 14)
|