LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
BỒ TÁT GIỚI
(Ấn Độ - Trung Quốc - Việt Nam)
Thích Thái Ḥa
- Trung Quốc
Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc có nhiều lập thuyết, song lập
thuyết niên hiệu Vĩnh B́nh năm thứ 10 là lập thuyết được nhiều nhà sử học
thế giới cho rằng có thể tin được.
Theo lập thuyết này, th́ khoảng năm 67 sau Tây lịch, vua Hán Minh Đế có
một đêm nằm mộng thấy có một người vàng hào quang rực rỡ, đến từ phương
Tây làm rạng rỡ cả cung đ́nh.
Nhân ở giấc mộng này, Vua đoán biết có Phật giáo ở phương Tây tức Ấn Độ,
do đó Vua sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh và phái đoàn gồm 18
người, đi đến phương Tây tức Ấn Độ để thỉnh tượng Phật về thờ.
Trên đường đi đến Ấn Độ, ngang qua Tukhàra (Đại Nhục Chi), phái đoàn đă
gặp hai Ngài Phạm Tăng là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang chở kinh
và tượng Phật bằng Bạch Mă đi về phía Đông, do đó phái đoàn cung thỉnh hai
Ngài đến Trung Quốc.
Khi hai Ngài và phái đoàn về đến Trung Quốc, vua Hán Minh Đế mừng rỡ, liền
xây dựng chùa Bạch Mă để thờ Phật và làm nơi để hai Ngài dịch Kinh. (Theo
các sách Hậu Hán kỷ - Phật Tổ Thông Kỷ - Mâu Tử Lư Hoặc Luận.)
Ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamàtanga) quê ở Trung Ấn, Ngài học giỏi, nhớ
lâu, đạo hạnh tuyệt vời và Ngài thường tŕ tụng kinh Surannaprapha'sa
(Kinh Kim Quang Minh).
Ngài Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), cũng là người Trung Ấn, giới luật rất
tinh nghiêm, cả hai Ngài đều ở chùa Bạch Mă ở Trung Quốc để dịch kinh. Tác
phẩm của hai Ngài dịch đầu tiên là Kinh Tứ Thập Nhị Chương, và sau đó các
Ngài tiếp tục dịch các kinh khác như: Thập Địa Đoạn Kết Kinh (8 cuốn),
Pháp Hải Tạng Kinh (1 cuốn), Phật Bản Hạnh Kinh (5 cuốn), Phật Bản Sinh
Kinh (1cuốn)...
Nh́n vào các bản kinh của hai Ngài phiên dịch, cũng đủ để thấy rằng, Phật
học Đại thừa của hai Ngài uyên bác đến chừng nào và hạnh nguyện Bồ tát
tuyên dương chánh pháp của hai Ngài ngang đâu?
Nếu đọc kỹ Kinh Tứ Thập Nhị Chương, do hai Ngài đă phiên dịch th́ chúng ta
thấy rằng, đây là một bộ kinh không những thuần Đại thừa mà c̣n xuyên suốt
cả giáo lư Nguyên thỉ, trong đó không những chuyên chở tinh thần giới Đại
thừa mà cũng chuyên chở xuyên suốt hết thảy giới căn bản.
Chẳng hạn, kinh giải thích về ư nghĩa Sa môn là "người từ bỏ thân thuộc để
xuất gia, thấu rơ đến tận nguồn gốc của tâm, biết được pháp đưa đến Niết
Bàn. Vị ấy, thường hành tŕ 250 giới, đi đứng trong thanh tịnh, tu hành là
để đạt đến đạo hạnh chân thật, đó là quả vị A La Hán...".
“Người làm Sa môn phải cạo bỏ râu tóc, lănh thọ pháp của đạo, từ bỏ tài
sản thế gian, khất thực vừa đủ, ăn một bữa giữa ngày, ngủ một đêm dưới gốc
cây, cẩn thận không trở lại nữa! Phải biết rằng, điều khiến cho con người
ngu và tệ là ái và dục".
Đối với học giới th́ kinh dạy: "Giữ vững chí nguyện, tâm tự lắng trong,
mới có thể lănh hội và đến được chỗ mầu nhiệm của đạo".
Đối với sự quán chiếu th́ kinh nói: "Hăy quán chiếu để thấy rơ linh giác,
chính là Bồ đề, biết rơ như vậy th́ thành đạo rất mau chóng".
Kinh đă đề cập đến lư tưởng xuất gia và ư nghĩa của đạo như: "Người xuất
gia làm Sa môn, là muốn đoạn trừ dục vọng, loại bỏ khát ái, tự biết nguồn
tâm, đạt đến lư tính sâu thẳm của Phật. Giác ngộ được pháp vô vi, ở nội
tâm tự ḿnh không thấy sở đắc, ở ngoại cảnh tự ḿnh không có chỗ cầu, tâm
hằng tự tại, không bị buộc trói bởi đạo và nghiệp, không c̣n khởi niệm,
không c̣n tác ư, không c̣n pháp tu, không c̣n quả chứng, các địa vị tu tập
không c̣n phải trải qua mà tự nó là tối thượng, ấy gọi là đạo vậy".
Rơ ràng, khi hai Ngài đến Trung Quốc để tuyên dương Phật pháp, các Ngài đă
đem toàn bộ hệ thống tu học từ thấp lên cao mà truyền bá chứ không thiên
một pháp nào.
Nên, hẳn nhiên trong tinh thần Kinh Tứ Thập Nhị Chương do hai Ngài dịch,
nó gồm đủ cả tinh thần Thanh Văn giới và Bồ Tát giới.
Tinh thần Thanh Văn giới, Thập Thiện giới th́ ở trong kinh đề cập khá cụ
thể, nhưng tinh thần Bồ Tát giới hàm chứa ở trong kinh này rất là tế nhị.
Lại nữa, theo Hậu Hán Thư, có chép câu chuyện liên hệ đến Sở Vương Anh tin
Phật như sau:
"Năm 65-Tây lịch, vua Hán Minh Đế xuống lệnh cho phép những người nào bị
tội nặng được dâng vóc lụa để chuộc tội.
Sở Vương Anh tức là con cùng cha khác mẹ với Vua, được phong tước Hầu
Vương năm 41.
Dù năm 52, Sở Vương Anh đă di cư ra Bành Thành, kinh đô của nước Sở.
Nhưng, Sở Vương Anh khi nghe chiếu lệnh ấy, mặc cảm rằng ḿnh cũng có tội,
nên liền dâng lên vua Hán Minh Đế ba mươi tấm lụa.
Vua Hán Minh Đế xuống chiếu nói rằng: "Vương không có tội ǵ, trái lại
Vương c̣n có công đức, ...biết sùng thượng giáo lư cao siêu của Hoàng Lăo
và đức nhân từ bao dung của Phật".
Vương liền làm lễ sám hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn cúng
dường Tăng sĩ và cư sĩ. (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận - Nguyễn Lang, tr.22,
Lá Bối xb. 1972 - Paris.)
Nếu đây là một tư liệu có giá trị lịch sử, th́ tinh thần từ bi, sám hối,
ăn chay, cúng dường của Bồ tát giới đă có rất sớm trên đất Trung Hoa,
nghĩa là muộn lắm là khoảng năm 65-Tây lịch, tinh thần Bồ tát giới đă được
các hàng Tăng sĩ và cư sĩ ở xứ này phụng hành một cách kính trọng.
Hiển nhiên, tinh thần ăn chay, tinh thần từ bi luôn luôn gắn liền với bản
chất của Bồ tát giới trong đạo Phật.
Lại nữa, sau Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan khoảng 80 năm, tức là
khoảng năm 147-Tây lịch, th́ lại có Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa để phiên
dịch kinh tạng và tuyên dương chánh pháp.
Ngài là một vị Thái tử của Vua Parthia nước An Tức. Sau khi xuất gia Ngài
tu tập thông hiểu Tam tạng, đến Trung Hoa năm 147, hoằng pháp và phiên
dịch Kinh tạng tại đây.
Kinh điển do Ngài dịch có 34 bộ gồm 40 cuốn.
Nhưng hiện nay trong Đại Tạng Tân Tu chỉ thấy c̣n lại một ít như: Tứ Đế
Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Bát Chánh Đạo Kinh,... đây là những bộ kinh
hàm chứa những giáo lư căn bản của Phật học. Và Kinh Phật Thuyết Đại Thừa
Phương Đẳng Yếu Tuệ, do Ngài dịch hàm chứa tinh thần Bồ tát đạo rất là sâu
xa.
Ở trong kinh này, đức Phật đă dạy cho Bồ Tát Di Lặc tám điểm để không bị
thối chuyển đối với pháp Đại thừa, nhằm thực hành Bồ tát đạo và nhiếp phục
các ma oán, thành tựu địa vị tối thượng của Nhất Thế trí.
Tám điểm ấy là:
1. Phải có bản chất thanh tịnh từ bên trong (Nội tánh thanh tịnh).
2. Phải thành tựu đối với những điều đă được phụng hành (Sở hành thành
tựu).
3. Phải thành tựu các hạnh bố thí (Sở thí thành tựu).
4. Phải thành tựu về hạnh nguyện (Sở nguyện thành tựu).
5. Phải thành tựu ḷng từ (Từ thành tựu).
6. Phải thành tựu ḷng bi (Bi thành tựu).
7. Phải thành tựu về phương diện thiện xảo (Thiện quyền thành tựu).
8. Phải thành tựu trí tuệ (Trí tuệ thành tựu). (Phật Thuyết Đại Thừa
Phương Đẳng Yếu Tuệ Kinh, tr.186, ĐTTT 12.)
Ở trong tám điều đức Phật dạy trên, chúng được thâu nhiếp vào tam tụ
tịnh giới của Bồ tát giới như sau:
Điều một là thuộc về Nhiếp luật nghi giới.
Điều hai là Nhiếp thiện pháp giới.
Và những điều c̣n lại thuộc về Nhiêu ích hữu t́nh giới.
Sự hiện diện của Ngài An Thế Cao trên mảnh đất Trung Quốc là sự hiện diện
của một con người thực hành Bồ tát đạo, điều này đă được Ngài Khương Tăng
Hội ở thế kỷ thứ III đă nói ở trong bài tựa của Kinh An Ban Thủ Ư như sau:
"Có một vị Bồ tát tên là An Thanh, tự là Thế Cao, con đích của vua nước An
Tức, sau khi nhường ngôi cho chú, lánh qua đất này...", chính chi tiết này
cho ta biết thêm tinh thần truyền bá Bồ tát giới của Ngài An Thế Cao lúc
bấy giờ.
Năm 250 TL, Ngài Dharmakàla (Đàm Ma Ka La) và Dharmatràta từ Trung Ấn đến
Trung Hoa mới bắt đầu phiên dịch Luật tạng, như Tăng Kỳ Giới Bổn, Đàm Vô
Đức Yết Ma... để làm phép tắc trao truyền giới pháp.
Và bản Bồ Tát Phạm Vơng Giới Kinh, măi đến khi Ngài Cưu Ma La Thập
(Kumarajira) đến Trung Quốc năm 386-413, mới được phiên dịch.
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, do Ngài Trúc Phật Niệm dịch vào đời Diêu
Tần khoảng năm 317-419 TL.
Bồ Tát Địa Tŕ Kinh, Ưu Bà Tắc Giới Kinh, do Ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaksa)
dịch vào đời Lương, khoảng 412 TL.
Bồ Tát Giới Nội Kinh, Bồ Tát Thiện Giới Kinh, do Ngài Cầu Na Bạt Na
(Gunavarman) dịch khoảng 377-431 TL, Ngài c̣n dịch Tứ Phần Tỷ Khưu Yết Ma
Pháp.
Nhờ nhiều thế hệ cao Tăng từ Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng hóa và phiên dịch
kinh điển, làm cho trên mảnh đất này phát sinh những vị cao Tăng rất vĩ
đại như Ngài Chu Sĩ Hành, đă xuất gia tu học, chuyên giảng dạy kinh "Đạo
Hành Bát Nhă", và là vị cao Tăng đầu tiên tu học Ấn Độ vào khoảng 260-TL.
Ngài Đạo An (312-385), một vị danh Tăng đời Tiền Tần, học tṛ của Ngài
Phật Đồ Trừng, 12 tuổi xuất gia, thông minh kỳ lạ, lớn lên thọ cụ túc
giới, và có công lớn trong sự hoằng truyền Phật pháp.
Ngài đă làm bộ "Kinh Điển Mục Lục", phụ giúp các vị Phạm Tăng phiên dịch
kinh điển, Ngài thường giảng dạy Kinh Phóng Quang Bát Nhă cho hội chúng,
Ngài chú thích nhiều bộ kinh điển, định ra các Tăng chế như các pháp "Hành
Hương, Định Tọa, Sáu Thời Hành Đạo,...thực hành pháp Bố tát và Sám hối".
Ngài dùng họ Thích là họ chung cho những người xuất gia, để nói lên rằng,
nó có gốc rễ từ đức Thích Tôn.
- Tuệ Viễn (334-416), Ngài người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây, thưở nhỏ theo
Nho học và Đạo học, năm 21 tuổi cùng với em là Tuệ Tŕ theo học Phật với
Ngài Đạo An, Ngài là người rất thông minh và rất được Ngài Đạo An quư
chuộng.
Sau khi trưởng thành, Ngài đến Lư Sơn để tu tập và hoằng pháp, Ngài đă cho
hai vị đệ tử là Pháp Tịnh và Pháp Vĩnh sang Ấn Độ để học về Phạn văn.
Ngài đă trước tác "Pháp Tính Luận, Sa Môn Bất Bái Vương Giả Luận, Đại Trí
Độ Luận Sao,... Ngài là vị khai sáng "Bạch Liên Xă", tức là những người tu
tập tịnh độ. Ở trong Bạch Liên Xă có những vị Tăng sĩ nổi tiếng như: "Tuệ
Viễn, Tuệ Vĩnh, Tuệ Tŕ, Đạo Sinh, Đàm Thuận, Phật Đà Da Xá, Phật Đà Bạt
Đà La,... và trong hàng cư sĩ có những vị nổi tiếng như: Lưu Tŕnh Chi,
Trương Dă, Chu Tục Chi, Trương Thuyên, Tôn Bính, Lôi Thứ Tôn,...".
Như vậy, đến thời điểm này, Phật giáo không những có gốc rễ từ những hàng
Tăng sĩ bản xứ mà c̣n ảnh hưởng đến hàng vua chúa quan quyền, và tầng lớp
trí thức cũng như thứ dân của xă hội Trung Hoa bấy giờ.
Các vua chúa Trung Hoa như Phù Kiên đời Tiền Tần cho đến các vua Diêu
Trành, Diêu Hưng đều nhiệt t́nh ủng hộ Phật giáo về mọi mặt.
Vua Mông Tốn thế kỷ V, đời Bắc Lương cũng rất hết ḷng ủng hộ Phật giáo.
Tuy nhiên, Phật giáo từ khi truyền vào Trung Quốc đến thế kỷ V, không phải
lúc nào cũng hưng thịnh và cũng có sự ủng hộ của vua chúa , mà trái lại
Phật giáo cũng có lúc bị suy vi bởi những nhà vua bài xích và đàn áp Phật
giáo như Cao Tổ Vơ Đế nhà Tống (420-588 TL).
Nhưng đến đời nhà Lương th́ Phật giáo thịnh hành, vua Lương không những là
nhà ngoại hộ và thâm tín Phật giáo mà vua c̣n đem vương quyền và giáo
quyền hợp nhất để trị dân.
Vua tự ḿnh soạn ra bài văn "Đoạn tửu nhục" (chấm dứt sự ăn thịt và uống
rượu) để quyết tâm tu tŕ.
Năm 517, vua ra lệnh cho nhân dân không được cúng tế quỷ thần bằng rượu
thịt mà chỉ cúng tế bằng hoa quả.
Vào ngày 08 tháng 4 năm 519 lễ Phật Đản, vua lại phát tâm thọ tŕ Bồ tát
giới tại chùa Thảo Đường với Ngài Tuệ Ước, sau đó các công khanh sĩ dân
cũng noi gương mà thọ giới pháp cả mấy vạn người. Vua c̣n ra lệnh mở nhiều
pháp hội ở nhiều nơi như: Vô Giá Đại Hội, B́nh Đẳng Pháp Hội, Cứu Khổ Trai
Đàn, Đại Pháp Hội... để thể hiện hạnh nguyện Bồ tát vậy.
Vua chú sớ kinh Bát Nhă và thường dạy kinh này cho các đ́nh thần văn vơ,
sĩ thứ và kể cả Tăng sĩ nữa.
- Đời Tùy (581-618), sau khi thống nhất thiên hạ, Tùy Văn Đế lên ngôi,
ngoài việc chăn dân vua hết sức phục hưng Phật giáo, xây dựng chùa tháp
khắp nơi, hết ḷng ủng hộ Tăng Ni tu học và truyền bá Phật giáo.
Trong sự nghiệp phục hưng Phật giáo, Vua nói: "Phật lấy chánh pháp phó
chúc cho Quốc vương, Trẫm là Đấng nhân tôn, tuân theo lời phó chúc đó".
Năm 585, Vua phát tâm thọ tŕ Bồ tát giới với Sa môn Pháp Kính, sau đó Vua
hạ lệnh xá ngục tù cho tất cả 24.900 người, giảm tội tử h́nh cho 3.700
người. Vua c̣n có ḷng từ bi đối với các loài vật, ngày 15-6 là ngày sinh
nhật của Vua, vào ngày đó Vua hạ lệnh cấm nhân dân không được giết hại súc
vật.
Vua Tùy Văn Đế mất, Thái tử là Tùy Dạng Đế lên ngôi, kế nghiệp Vua cha trị
nước, an dân và quảng bá Phật pháp, Vua đă thỉnh Ngài Trí Khải trao truyền
Bồ tát giới.
Hết Tùy đến Đường (618-907), Phật giáo cực thịnh, các cao Tăng xuất hiện
như Ngài Nghĩa Tịnh, Huyền Tráng, Đạo Tuyên... làm cho Phật giáo ở thời
đại này vô cùng rực rỡ.
Ngài Nghĩa Tịnh và Huyền Tráng đều là những nhà du học Ấn Độ và rất giỏi
Phạn văn, các Ngài sau khi du học đă trở về nước phiên dịch kinh điển từ
Phạn bản sang Hán, sự nghiệp phiên dịch của các Ngài rất là vĩ đại.
Cuối đời Đường, Phật giáo xuống dốc có nhiều lư do chính là do Tăng đoàn
suy đồi, v́ Tăng đoàn đă trở nên hỗn tạp, những vị chính tâm tu tập th́
ít, nhưng những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu cá nhân th́ nhiều, do đó Tăng
đoàn không đủ đạo lực để nhiếp hóa những kẻ ngoại hộ và ngoại đạo, nên đă
đưa đến t́nh trạng Vơ Tôn phế Phật (842).
Hết đời Đường đến đời Tống (960-1279), Phật giáo hưng thịnh trở lại, các
bậc cao Tăng xuất hiện, Vua Tống Thái Tổ ra lệnh phục hưng Phật giáo, độ
cho 800 đồng tử xuất gia, mời các danh Tăng về cung dạy đạo, cử 157 người
đi Ấn Độ để cầu Pháp.
Đến đời Vua Tống Thái Tôn cũng tiếp tục phục hưng Phật giáo, vua phát tâm
thọ tŕ Bồ tát giới.
Đến Vua Tống Nhân Tông, cũng rất thâm tín Phật pháp,Vua đă yêu cầu Ngài
Pháp Hiền mở "Cam lồ pháp đàn" để thí giới.
Trong truyền thống giới đàn của Phật giáo Bắc Phạn và nhất là ở Trung Hoa,
phần nhiều những giới tử cầu thọ cụ túc giới đều kèm theo thọ tŕ Bồ tát
giới và nhiên hương ở đỉnh đầu để cúng dường Phật, nhằm nêu cao tinh thần
thực hành Bồ tát đạo.
Sự hưng vượng hay suy vong của Phật giáo ở trung Quốc từ những triều đại
trước và kể những triều đại sau Tống, yếu tố chính vẫn do tâm nguyện tu
học của hàng Tăng sĩ và cư sĩ có kiên cố và đạo hạnh hay không? Nếu tu học
mà không có chánh tâm là tâm Bồ đề th́ Phật pháp khó mà bảo toàn chứ đừng
nói là hưng vượng.
Tóm lại, bất cứ thời điểm nào và ở đâu, các Tăng sĩ vừa là Bậc có đạo
hạnh, vừa là Bậc có tâm huyết hoằng pháp, th́ lúc đó và ở đó, Phật pháp
không bị dứt tuyệt. Và hàng cư sĩ dốc ḷng hộ đạo, thọ tŕ Bồ tát giới,
th́ dù Thiên Ma có cầu mong chánh pháp hủy diệt, chúng cũng hoàn toàn bị
thất vọng.
(Ấn Độ)
(Việt Nam)
T.T.H.
|