www.todinhlinhson.com

góp nhặt

 

Thích Tuệ Sỹ
Huyền Thoại Duy Ma Cật

những giá trị phổ quát của Bồ Tát hạnh (I)

(phần II)

(phần III)

Nhân đọc Triết Học Thế Thân bản dịch Việt
Về những minh họa từ Thiền Uyển Tập Anh
Buddhist Foundation of Economics

Lê Mạnh Thát

Triết Học Thế Thân (phần I)
(phần II)
(phần III)

(phần IV)

(phần V)

(Về Tự Trị - 1)
(Về Tự Trị - 2)
(Về Tự Trị - 3)
Một Số Nhận Xét Cuối Cùng
Ngôn Ngữ về Những Ǵ Hiện Hữu

Emperor Nhân Tông and the War of Defense

And The Trúc Lâm School

Thích Phước An

nhà thơ của Am Mây Trắng ở Thế Kỷ XVIII có bài bác Phật Giáo Không?

Toàn Nhật thiền sư..

Toàn Nhật thiền sư (tt)

Thích Thái Ḥa

Giới thiệu phẩm vua Diệu Trang Nghiêm - Kinh Pháp Hoa

Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa

Lịch Sử Phát Triển Phật Giáo Đại Thừa Bồ Tát Giới

Giới thiệu Phật Giáo Đại Thừa Bồ Tát Giới Phần(1)

Phần (2)

phần (3)

giới thiệu phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến phát trong kinh Pháp Hoa

Hồng Dương

Lưới Tương Giao (1)

Lưới Tương Giao (2)

Lưới Tương Giao (3)

Lưới Tương Giao (4)

Đốn Ngộ Tiệm Tu

Tín Là Trung Đạo

Tín và chứng trong kinh Hoa Nghiêm

Phân Biệt, Ngôn Ngữ và Tu chứng

E Conze

Vô Vi và Tiến Tŕnh Giải Thoát

Một số vấn đề trong ABHIDHARMA

 
  THIỀN SƯ TOÀN NHẬT,
người muốn đưa tinh thần Phật giáo
đời nhà Trần xuống cho triều đại
Tây Sơn


Thích Phước An
 
 

(1, 2, 3 tiếp theo)

Nhưng nếu trước khi xuất gia, Toàn Nhật đă từng làm tướng rồi sau đó mới “tuốt dép
lánh xa khỏi nơi doanh liễu”. Vậy th́ bây giờ ta thử xem Thiền sư Toàn Nhật đă làm
tướng cho triều đại nào?

Theo tác giả Toàn Nhật Quang Đài, trong những tác phẩm đă t́m lại được th́ chỉ có
tác phẩm Xuất gia tối lạc tỉnh thể tu hành văn là Toàn Nhật có nhắc đến triều đại nhà
Nguyễn:

Ấy triều đại cổ kim thật lục
Nối truyền qua bản quốc Nam thiên
Những v́ thánh chúa tôi hiền
Tượng kinh tôn trọng chùa chiền nghiêm trang
Nỗi riêng than có thành có quách
Nếu vui thôi th́ ắt thái qua
Mừng nay minh chúa Nguyễn Gia
Trung hưng chánh pháp gần xa tôn sùng
Dựng tăng pḥng lại trau Phật điện
Tạo trống chuông nổi tiếng vang lừng
Tăng ni thong thả tu thân
Cảnh thiền tiêu sái áng trần phiền lao.

Nhưng thời bấy giờ ở đàng trong có hai chúa Nguyễn, là Nguyễn Gia Long và
Nguyễn Tây Sơn, vậy câu: “Mừng nay minh chúa Nguyễn Gia” của Toàn Nhật muốn
nói đến Nguyễn Gia Long hay Nguyễn Tây Sơn?

Và đây là lời giải đáp của giáo sư Lê Mạnh Thát, tác giả Toàn Nhật Quang Đài:
“Đương nhiên, nó không thể là nhà Nguyễn của các chúa Nguyễn bởi v́ kể từ năm
1771 trở đi, lúc Toàn Nhật mới 14 tuổi, th́ toàn bộ ḍng họ chúa Nguyễn đă bị đánh
bật ra khỏi ngôi vị của ḿnh, để có thể làm chuyện “trung hưng chánh Pháp”. Do vậy,
chỉ có thể là nhà Nguyễn Tây Sơn hay nhà Nguyễn Gia Long mà thôi. Đối với nhà
Nguyễn Gia Long, tuy Toàn Nhật sống hơn 30 năm c̣n lại của đời ḿnh dưới sự
thống trị của ḍng họ này và đă biểu thị một thái độ hết sức đặc biệt. Ông hầu như
không thừa nhận sự hiện diện của nhà Nguyễn ấy qua việc ông không bao giờ xử
dụng niên hiệu của các vị vua nhà Nguyễn trong các tác phẩm để ghi lại những đơn
vị thời gian cần thiết.

Chẳng hạn, trong ba bài bạt ta hiện t́m được viết cho những lần in kinh năm 1819 và
1829, th́ một bài bạt không đề ngày tháng ǵ hết, c̣n hai bài bạt kia, ta chỉ thấy ghi
“tuế thứ Kỷ Măo” và “tuế thứ Kỷ Sửu”. Việc ghi niên đại kiểu này, trong khi đất nước
đang có chủ quyền, là một biểu thị khinh nhờn cực kỳ nghiêm trọng đối với nhà
đương quyền. Nói trắng ra, Thiền sư Toàn Nhật không thừa nhận nhà Nguyễn Gia
Long là chính thống, do thế đă không xử dụng niên hiệu của Gia Long và Minh Mạng
ngay cả lúc cần thiết. (Toàn Nhật Quang Đài toàn tập I, NXB TP.HCM.2005 trang
27-28.)
Trong tác phẩm Lược sử Phật Giáo và các chùa Phú Yên, hai tác giả Nguyễn Đ́nh
Chúc và Huệ Nguyễn khi viết về Thiền sư Diệu Nghiêm và chùa Từ Quang cũng xác
nhận rằng: “Đệ tử thành đạt của tổ sư có đến 28 vị thành danh, trong đó có Thiền sư
Toàn Nhật Quang Đài nguyên là mưu thần của vua Quang Trung về sau xuất gia và
làm trụ tŕ chùa Viên Quang” (NXB Thuận Hóa 1999 trang 90.).
Nhưng tại sao Toàn Nhật đă gặp được “Chúa thánh tôi hiền” để phục vụ lại phải vội
vă từ giả khi mới có 30 tuổi đầu? Chắc chắn phải có một biến cố đau ḷng nào đó? Tác
giả Toàn Nhật Quang Đài cho rằng:

“Lư do cho sự từ quan có thể xuất phát từ cuộc tranh chấp nào đó, mà ngày nay v́
thiếu tư liệu, chúng ta không thể nào xác định được một cách rơ ràng. Trong Từ
Quang Tự sa môn Pháp chuyên Luật truyền Diệu Nghiêm Thiền sư xuất thế nhân do
sự tích, dù được viết vào năm Gia Long thứ 3 (1805) nhà Tây Sơn xung đột với nhau
bằng từ ngữ “thủ túc tương tranh”. Ta biết việc kéo quân vào Quy Nhơn vây Nguyễn
Nhạc xảy ra vào khoảng tháng 9 năm 1786 sau khi đă rút quân khỏi Thăng Long vào
tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), và Nguyễn Nhạc đă than khóc với Nguyễn Huệ về việc
nồi da xáo thịt. Như vậy khi Toàn Nhật nói ḿnh xuất gia vào năm 30 tuổi, và ông lại
sinh vào năm Đinh Sửu (1757), th́ năm Bính Ngọ ông đúng 30 tuổi theo cách tính của
người Việt Nam. Việc rũ áo từ quan đi xuất gia của Toàn Nhật do thế phải chăng đă
liên hệ với sự kiện anh em Tây Sơn xung đột vừa nói? (Toàn Nhật Quang Đài tập I,
NXB TP HCM 2005, trang 30.)

Trong suốt 2 tác phẩm Tham thiền văn và Thiền cơ yếu ngữ văn, ta nghe thấy một
nỗi buồn nào đó với con đường lợi danh mà Toàn Nhật vừa rũ bỏ để ra đi.
Quyết một bề trèo non đào giếng
Kẻo lời phàm đeo tiếng thị phi
(Tham thiền văn)

Không phải chỉ buồn thôi mà c̣n có một cái ǵ đó vừa chua chát vừa đắng cay:
Danh lợi đă đề nên tiếng sĩ
Đâu ở ḿnh xử kỷ chẳng toan
Súng kia nhắm dạng dè làn
Thiên cơ dễ biết ngộ duyên quân thần
Đă cầm cân non già từng nhắc
Dai hay sao tráo trác đấu đong
(Tham Thiền văn)

Nhưng không sao, v́ Toàn Nhật có đủ nghị lực cũng như ư chí để vượt qua những
phong ba băo táp của cuộc đời, v́ ông đă tự nhắc nhở cho chính ḿnh:
Miễn là neo nọc cho bền
Gió lồng mặc gió, vững thuyền th́ thôi
(Tham Thiền văn)

hoặc là:
Lời thị phi khen chê mặc thế
Hơi nào mà cấm chợ ngăn sông?
Và nếu Toàn Nhật đă từng theo Chúa Nguyễn Tây Sơn, th́ nhất định triều đại Tậy
Sơn phải là một triều đại tôn sùng Phật giáo như Thiền sư Toàn Nhật đă hết ḷng ca
ngợi:
Mừng nay minh chúa Nguyễn Gia
Trung hưng chánh Pháp gần xa tôn sùng
Dựng tăng pḥng lại trau Phật điện
Tạo trống chuông nổi tiếng vang lừng
Tăng ni thong thả tu thân
Cảnh thiền tiêu sái áng trần phiền lao

Tác giả Lê Mạnh Thát đă khẳng định như thế này: “Lịch sử và dă sử cũng như truyền
thuyết đều xác nhận nhà nước Tây Sơn dưới sự lănh đạo của Nguyễn Huệ, đă có
những chính sách cải cách Phật giáo thực to lớn. Điều này cũng không có ǵ lạ khi ta
nhớ rằng trong ba anh em nhà Nguyễn Tây Sơn, có người đă ở Chùa làm sư rồi sau đó
mới ra làm tướng, làm vua. Có thuyết nói rằng người đă từng làm sư ấy là Nguyễn Lữ,
nhưng thuyết đáng tin cậy hơn lại nói người đó chính là Nguyễn Huệ. Ngày nay, tại
Chùa Trúc Lâm ở Huế c̣n giữ một tấm gấm thêu Kinh Kim Cang bằng chỉ đỏ do Ngọc
Hân Công chúa thực hiện vào năm Cảnh Thịnh thứ 2. Và văn tế vua Quang Trung do
Ngọc Hân viết cũng nói đến cái chết của vua Quang Trung như “miền cực lạc xe mây
vùn vụt”. Vua Quang Trung phải là người như thế nào về phương diện tôn giáo, th́
Công chúa Ngọc Hân mới nới tới miền cực lạc. Cũng thế, thái độ tôn giáo của triều
đ́nh Tây Sơn Quang Trung như thế nào, th́ Ngọc Hân mới thêu kinh Kim Canh Bát
Nhă lên gấm” (Sdd tập I trang 28.).

Nguyễn Xuân Nhân, trong tác phẩm Văn học dân gian Tây Sơn cũng xác nhận như
thế này đối với thông tin trên:

“Trước khi dấy nghĩa, Nguyễn Lữ cùng theo hai anh học văn học vơ với thầy giáo
Hiến. Sau đó có một thời gian xuất gia nên ông c̣n được gọi là thầy Tư Lữ. Mấy năm
làm nhà sư, ông có dịp trao đổi vơ thuật với các nhà sư Trung Quốc vốn là những
người mang tư tưởng “Phục Minh Kháng Thanh” trú ngụ ở An Thái (B́nh Định). Ông
muốn cho bộ môn vơ thuật nước nhà thích hợp với thể chất của người ḿnh nên cùng
các chiến hữu t́m hiểu kỹ các thế đánh của đôi gà chọi nhau, rồi sáng tạo nên nhiều
thế đánh mới hợp thành một thể thống nhất gọi là Hùng Kê Quyền” (NXB Trẻ TP.
HCM 1999.).

Nếu những điều trên có thể làm cho ta bán tín bán nghi v́ nửa là lịch sử và nửa là dă
sử th́ những bằng chứng sau đây cũng của tác giả Toàn Nhật Quang Đài chắc chắn
là sự khẳng định rơ ràng của lịch sử:

“Không những thế, triều đ́nh nhà Tây Sơn, cụ thể là triều đ́nh vua Quang Trung,
gồm những người cốt cán lại là những Phật tử. Ta có Hải Lượng đại Thiền sư, tức
Binh Bộ Thượng Thư Ngô Thời Nhiệm (1746-1803) cùng những người trong Trúc Lâm
Thiền viện của ông như Hương Lĩnh Bá Nguyễn Đăng Sở, Phan Huy Ích, Vũ Trinh…
Ngoài ra vị quân sư của Nguyễn Huệ là Trần Văn Kỷ, lại có con đi xuất gia có hiệu là
Đạo Minh Trung Hậu ḥa thượng. Triều đ́nh nhà Tây Sơn do thế là một triều đ́nh
Phật giáo” (Sdd tập I trang 28.).

“Ngoài ra, từ Quang tự sa môn Pháp chuyên Luật truyền Diệu Nghiêm thiền sư xuất
thế nhân do tích chí có cho ta biết về việc thầy của Toàn Nhật là Thiền sư Pháp
chuyên luật truyền Diệu Nghiêm đă được vua quan nhà Tây Sơn ủng hộ. Chẳng hạn,
vào năm Bính Th́n (1796) tại tỉnh Phú Yên, Pháp chuyên đă tổ chức một giới đàn để
thọ giới cho hơn 200 tăng ni, th́ đă được chủ trấn là Đoàn Luyện quận công của nhà
Tây Sơn ủng hộ.

Rồi đến năm Mậu Ngọ (1798) Thiền sư Diệu Nghiêm lại được Hoàng Thái hậu nhà
Tây Sơn mời ra Huế để chứng minh việc đúc Đại Hồng Chung và được ban cà sa màu
tím. Ta biết những năm 1796 cho đến 1798, quân Nguyễn Ánh chưa lấy được Phú Yên
và Thuận Hóa” (Sdd tập I trang 29.).
Và như vậy, tác giả Toàn Nhật Quy đài kết luận:
“Trên cơ sở những phân tích vừa thấy “minh chúa Nguyễn Gia”, tất không thể ai hơn
là vua Quang Trung. Từ đó, nếu trước khi xuất gia, Toàn Nhật đă làm quan và làm
tướng th́ ông đă làm quan làm tướng với nhà Tây Sơn” ( nt.).

Bởi vậy nên mặc dù đă rời bỏ hàng ngũ của phong trào Tây Sơn để đi xuất gia, nhưng
Toàn Nhật vẫn tích cực hỗ trợ cuộc cách mạng của Tây Sơn. Chính v́ sự hỗ trợ này
nên khi nhà Tây Sơn sụp đỗ và Nguyễn Gia Long chiếm được chính quyền th́ Toàn
Nhật lại phải sống lao đao cùng với vận nước nổi trôi, như chính Toàn Nhật đă ghi lại
trong một bài phú:
Ở không nơi; về không chốn
Than rằng biển khổ rất mênh mông
Lênh đênh chẳng khác thuyền trôi
biết đâu dừng đỗ
Lăng đăng cũng như bèo nổi
Theo đó hợp tan
Công đă đi tu
Phận muối dưa lại không an phận
Ḷng toan học đạo,
Thân bả bô chẳng đặng dung thân
Ở không nơi, phải tạm ở đ́nh
Đ́nh vốn rộng trống sau trống trước
Quán cũng lạ không vào ngụ quán
Quán tuy nhiều, khó mượn khó toan
Đặng gặp nơi nào
Cũng nhờ chốn ấy
(Thơ Bà Văi)

Nhưng tại sao một người như Toàn Nhật lại hết ḷng ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Tây
Sơn? V́ Tây Sơn đă đánh đuổi chúa Nguyễn ở Đàng trong, đă xóa tên hai tập đoàn
phong kiến là chúa Trịnh và vua Lê ở Đàng ngoài, đặc biệt là đă oanh liệt đánh tan
tành hai cuộc xâm lăng của nhà Thanh ở phương Bắc và Xiêm la ở phương Nam
chăng?
Nếu chỉ hùng mạnh về quân sự không th́ chưa đủ để thuyết phục một nhà trí thức lỗi
lạc như Toàn Nhật, để Toàn Nhật có thể ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn. V́
sao? V́ lư do đơn giản là xưa nay lịch sử đă từng chứng minh rằng, một chế độ chỉ biết
đề cao vơ trị th́ chế độ đó luôn luôn chuyên quyền và độc đoán và nạn nhân thê
thảm cho sự chuyên quyền và độc đoán này chính là người dân vô tội chứ không ai
khác.
Vậy chắc chắn triều đại Tây Sơn ngoài sức mạnh về quân sự ra th́ phải c̣n có những
chính sách nào đó rất phù hợp với ḷng dân nên một trí thức như Toàn Nhật mới ủng
hộ một cách tích cực như vậy chăng?

Cố học giả Trần Trọng Kim, đă nhận định về con người của Quang Trung Nguyễn
Huệ như thế này:
“Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy vơ lược mà dựng
nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người
hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thời Nhiệm, Phan
Huy Ích, đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiếp
th́ thật là khác thường.

Nguyễn Thiếp, tức là Khải Chuyên hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm
nhà ở Lục Niên thành, thuộc huyện La Sơn, Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là
Lục Niên tiên sinh hay là La Sơn Phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh
Bắc Hà, biết tiếng Nguyễn Thiếp, đă mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp,
ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi Ngài đăng cực, lại mấy lần cho
người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân
trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ
cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ư mà
Nguyễn Thiếp đă tŕnh bày” (Việt Nam sử lược NXB tổng hợp TP.HCM tái bản 2005
trang 373.).

Đó là chính sách của nhà nước Tây Sơn đối với giới trí thức, c̣n đối với người dân th́
sao? Người dân nước ta ở nửa cuối thế kỷ 18 th́ hầu hết đều sống bằng nghề nông,
lao động suốt ngày nhưng vẫn nghèo khổ. Vậy chính sách của nhà nước Tây Sơn đối
với những người nghèo khổ này th́ sao? Những người Tây phương có mặt từ những
ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nói rằng, khẩu hiệu của nghĩa quân là “hăy
tước đoạt của ngưởi giàu chia cho người nghèo”.

“Bọn Nguyễn Nhạc muốn đem ánh sáng công lư soi tới chúng dân và giải thoát khỏi
gông cùm của nhà vua, các quan và các cố vấn. Bọn chúng tuyên truyền tính b́nh
đẳng trong mọi địa hạt. Trung thành với thuyết tân xă hội, bọn Nguyễn Nhạc tước
đoạt tài sản của các quan thống trị giàu có và đem chia cho dân cùng đinh khố rách”
(Ngô Thời Nhiệm trong văn học Tây Sơn của Mai Quốc Liên NXB VHTT Nghĩa B́nh
1985 trang 110.).

Như vậy, chắc chắn những tác phẩm của Toàn Nhật, đặc biệt là Hứa sử truyện văn đă
được Toàn Nhật viết ra để hỗ trợ cho cuộc khởi nghĩa do chính những người từ giới
nông dân nghèo khổ ấy cầm đầu. Bởi thế, theo tác giả Toàn Nhật Quang Đài th́: “Thể
hiện rơ nét bản lĩnh tư duy của nhân dân ta trước những vấn đề trọng đại của đất
nước. Chúng không phải là những luận đề cũ rích vay mượn từ những sách vở Trung
Quốc, không có một liên quan thiết yếu đến đời sống dân tộc.

Trái lại, chúng là những vấn đề nóng bỏng của thời đại tác giả sống, đ̣i hỏi phải có
những giải đáp thích đáng. Cho nên, chúng không cần phải bao bọc trong những câu
thơ óng chuốt, trưởng giả, đầy những điển cố chữ nghĩa, sự tích xuất phát từ ḍng
văn hoá bác học và ít nhiều mang tính ngoại lai. Thay vào đó, chúng được tŕnh bày
một cách thẳng thắn, cố nhiên là dưới h́nh thức truyện văn, qua những lời thơ b́nh
dị, trong sáng đến nỗi giống như lời nói hằng ngày của nhân dân. Do thế, trên toàn
bộ, Hứa sử truyện văn đă thể hiện sức sống dạt dào đang cuồn cuộn dâng lên của
dân tộc ta trong thời kỳ nổ ra cuộc cách mạng Tây Sơn do nhà anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ lănh đạo lần đầu tiên đánh thắng hai thế lực quân chủ lực kỳ phản động
trong nước và thế lực xâm lược ngoại bang” (Sdd tập I trang 41.).
Nhưng với Toàn Nhật, một người được nuôi dưỡng từ truyền thống tư tưởng của Phật
giáo, th́ chỉ công bằng trên b́nh diện xă hội không chưa đủ mà c̣n phải b́nh đẳng và
công bằng ngay cả trên phương diện nhân phẩm của mỗi cá nhân con người nữa. Như
vấn đề gọi là chính thống và ngụy triều sau đây chẳng hạn:

“Những người làm quốc sư nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra
chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp,
hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng
nghiệp ở đất Trung Nguyên, th́ cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi
vua, là sự thoán đạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở
đất biên địa, ba là những người ngoại chủng vào chiến nước làm vua th́ cũng cho là
ngụy triều” (Trần Trọng Kim, Sdd trang 359.).

Như vậy, nhà Tây Sơn được xem là kẻ ở rừng núi, ở biên địa, là ngoại chủng vào cướp
nước làm vua nên sử nhà Nguyễn đă gọi là Ngụy Tây Sơn.

Thế nào là chính thống và thế nào là ngụy triều? Và ai là kẻ có thẩm quyền đứng ra để
bảo rằng triều đại này là chính thống và triều đại kia là ngụy triều là không chính
thống? Và có cái ǵ để bảo chứng rằng những người được sinh ra từ giới thống trị,
sanh ra ở vùng trung nguyên là hơn kẻ sanh ra ở vùng biên địa hay thôn dă quê mùa?
“Sự sanh trưởng không làm cho con người được liệt vào giai cấp Bà la môn hay bị loại
ra khỏi giai cấp này.

Chính nếp sống hàng ngày tạo ra người nông dân, thương gia hay nô bộc.
Nếp sống hàng ngày tạo ra hạng trộm cắp, binh sĩ, tu sĩ hay vua chúa.
Và thông điệp này cứ được nhắc đi nhắc lại măi trong giáo Pháp của Đức Phật:
“Là cung đ́nh không phải do sanh trưởng là Bà la môn không phải do sanh trưởng do
hành động, người này là cung đ́nh do hành động người này là Bà la môn (Sutta
Nipàta –Vasalasutta).

Từ lời khẳng định này của Phật giáo ta mới thấy rằng cái gọi là chính thống cũng như
không chính thống, gọi là ngụy triều hay chính triều chỉ là tṛ bày đặt của giai cấp
thống trị mà thôi chứ chẳng có bất cứ một giá trị đích thực nào cả.

Vậy bây giờ ta thử xem Thiền sư Toàn Nhật đă phải làm ǵ để đập tan cái lư luận bất
công này mà hỗ trợ cho cuộc cách mạng Tây Sơn? Những người được sanh ra từ nơi
thôn dă quê mùa?

Tác giả Lê Mạnh Thát viết: “Thế th́ Hứa sử truyện văn có thể được Toàn Nhật “san
bổ” trước những năm 1798. Phải chăng nó ra đời nhằm đáp ứng những yêu cầu lư luận
chính trị phục vụ cho sự nghiệp xưng đế và chống ngoại xâm của Quang Trung? Với
lư thuyết chống tôn quân, phải chăng nó đă gián tiếp biện minh cho việc Quang
Trung xưng đế không thừa nhận quyền uy chính thống của Vua Lê? Thậm chí, nếu
“Văn Hứa sử”, tiền thân của Hứa sử truyện văn lưu hành trước Toàn Nhật đă có nội
dung chống tôn quân khi Hứa sử truyện văn, thế phải chăng tiền thân ấy đă cung
ứng phần nào lư luận cho việc lên ngôi của Nguyễn Nhạc, chứ không phải chỉ đợi đến
Quang Trung?”

Cũng theo giáo sư Lê Mạnh Thát th́ Hứa sử truyện văn, ngoài những vấn đề về tư
tưởng Phật giáo ra, th́ nổi bật nhất có ba chủ đề chính, nhưng giáo sư cho rằng luận
đề thứ nhất mới là luận đề quan trọng nhất v́ nó đă “tiến công đập tan chủ nghĩa tôn
quân chuyên chế và cực đoan, phá vỡ cái trật tự phong kiến quân - sư - phụ hàng
ngàn năm đè nặng lên đầu lên cổ nhân dân. Đó là thầy quan trọng hơn cả vua và cha
mẹ. Dưới h́nh thức lời phán của Diêm vương, Hứa sử truyện văn đă nêu câu hỏi:

Tội ai bằng Hoàng Tử Anh
Giết cha rồi lại tung hoành hung hăng
Xét ḿnh nghịch ác chẳng an
Quy y niệm Phật ba đàng thoát qua
Xà vương giết hại vua cha
Quy y niệm Phật đặng tha tội đày
Có một sự tội phụ thầy
Phật không cứu đặng, ta rầy khó bênh
Hứa sử đứng lên xin hỏi:
Thế th́ thực sự thầy quan trọng hơn vua và cha mẹ sao?
Và như quân phụ sư ân
Trong đời đạo thiệt bằng cân cao dày
Làm tôi buông thói thẳng ngay
Làm con không thảo giết đày vua cha
Lẽ thời tội ấy không tha
Quy y sao lại thoát ra tội dày
Đệ tử nếu phụ ân thầy
Phật không cứu đặng, lịnh này chẳng tha
Vậy thời thầy hơn vua cha
Tôi nghe lẽ ấy ḷng mà chưa thông
Để trả lời câu hỏi của Hứa sử, một lần nữa dưới h́nh thức lời phán của Diêm vương,
Hứa sử truyện văn đă đưa ra lư lẽ sau:
Trong đời muôn việc không thầy
Thế gian thường nói đố mày làm nên
Tớ đương nghĩa trả ơn đền
Nếu mà phụ bạc tội dường hằng sa
Tớ thầy, tôi chúa, con cha
Trong đời ba ấy rất là trọng thay
Sanh con bằng chẳng có thầy
Lấy ai giáo hóa cho rầy nên thân
Chẳng noi đạo đức nghĩa nhân
Làm đường nghịch ác vong thân làm ǵ
Ví như tẩu nhục hành thi
Làm chi nên chuyện kể th́ là con
Cho hay khắc chấn gia môn
Chói danh hai họ tiếng đồn muôn thu
Cũng là tiết nghĩa pḥ vua
Trạc dân trí chúa cơ đồ đặng yên
Vua cùng cha mẹ rơ ràng
Các điều thành tựu nhờ ơn có thầy

Rơ ràng xuất phát từ quan điểm dân chủ tự phát của nhân dân, Toàn Nhật đă tiếp thu
những yếu tố dân chủ tự phát đó và triển khai chúng thành một lư tưởng dân chủ có
cơ sở lư luận, tiến công trực diện vào lập trường tôn quân chuyên chế và cực đoan do
các thế lực phong kiến suy tàn cố dựng lên. Có thể nói, đây là lần đầu tiên và có lẽ
duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta, một tác phẩm văn học dám nêu lên
một lư thuyết dân chủ, dám thẳng thừng tuyên bố không úp mở: “Vậy thời thầy hơn
vua, cha”. Vua là thiên tử, là con trời: “Khắp dưới gầm trời, không đâu không là đất
của vua, dân ở khắp đất không ai không là bề tôi của vua”. Tuyên ngôn phong kiến
đă dơng dạc xác định quyền uy tối thượng và bất khả xâm phạm của thiên tử là thế,
của vua là thế. Cho nên, nói rằng có một lớp người nào đó hơn cả vua nữa là phạm
thượng, là xúc phạm đến chính cốt lơi, đến chính điểm huyệt sống chết của vấn đề,
cần phải loại trừ không chút khoan nhượng, Toàn Nhật đă mạnh mẽ lên tiếng minh
định cái trật tự phong kiến quân - sư - phụ bất di bất dịch có thể bị đả đảo, để sư quan
trọng, thiết yếu hơn quân và phụ, bởi v́:

Trong đời muôn việc không thầy
Thế gian thường nói đố mày làm nên

Và tiếng nói đả đảo đó không phải xuất phát từ những truyền thống tư tưởng ngoại
lai, từ lư thuyết Khổng Mạnh. Trái lại, nó nổi lên từ kho tàng trí tuệ tích luỹ những
kinh nghiệm và nhận thức của dân tộc và nhân dân. Trên cơ sở nhận thức “Không
thầy đố mày làm nên”, với nội dung tất yếu giới hạn của nó, Toàn Nhật đă phát triển
thành một luận đề bẽ găy cái trật tự quân - sư - phụ, để đẩy lùi cái bóng ma gian ác
của trật tự ấy, mà vào thời Toàn Nhật đă trở thành rữa nát và cực kỳ phản động, đang
cản trỡ bước tiến của dân tộc, phủ lên cuộc sống của nhân dân một màn đau thương
thống khổ.

Hăy tưởng tượng lại cái thời kỳ mà vua chúa c̣n hoàn toàn nắm trong tay quyền sinh
sát đối với mọi người dân, và khi mọi người mặc nhiên nh́n nhận sự kiện ấy như một
tất yếu không phải bàn căi, ta mới thấy hết tính vĩ đại hùng tráng của một tiếng nói
Toàn Nhật.

Cũng hăy tưởng tượng lại cái thời kỳ khi ư thức hệ và nền giáo dục chính thống chỉ
tập trung nhồi sọ cho người ta cái chủ thuyết tôn quân cực đoan, ta mới thấy hết bản
lĩnh dám nghĩ dám làm của dân tộc ta, thể hiện qua những con người như Toàn Nhật.
Mà Toàn Nhật có được cái tầm vóc tư tưởng vĩ đại ấy, có được cái bản lĩnh dám nghĩ
dám làm ấy, đó là ông đă biết bám vào nhân dân, lấy cuộc sống, kinh nghiệm, nhận
thức và t́nh cảm của dân tộc, của nhân dân là chủ để thể hiện của ḿnh, mà giải quyết
những vấn đề do thời đại đặt ra.

Ông đă tập tan cái trật tự phong kiến quân - sư - phụ hàng ngàn năm đè nặng lên ư
thức của nhân dân, không bằng những viện dẫn từ sách vở ngoại lai, trái lại bằng
chính những tri thức, kinh nghiệm và t́nh cảm của dân tộc, của nhân dân kết tinh
trong những câu ca dao tục ngữ. Dựa vào và khai thác một cách có chọn lọc kho tàng
quư giá vô tận ấy, Toàn Nhật đă làm nổi bật thêm cái chân lư sáng ngời là đứng trong
hàng ngũ nhân dân, người ta càng trở nên to lớn theo kích thước vĩ đại của nhân dân
trong lịch sử, càng trở nên tin tường vào trí tuệ tuyệt vời, vào t́nh cảm trong sáng và
vào sức mạnh vô địch của họ”.

(…) Do thế, tư tưởng dân chủ của Toàn Nhật là một điểm son trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam. Lần đầu tiên nhân dân ta dám công khai nghĩ tới và tuyên bố rằng vua
không phải là vị tối thượng của nước, có quyền uy tuyệt đối với mọi người. (Sdd tập I
trang 67-70.)

Nếu đă gần hai thế kỷ qua, những người làm công tác nghiên cứu văn học ở nước ta
đă “không một lần tên Toàn Nhật được nhắc tới, không bất kỳ một ḍng nào dành
cho tác phẩm của ông” th́ những lời đánh giá trên của giáo sư Lê Mạnh Thát theo tôi,
là đă đủ để chuộc lại phần nào lỗi lầm của chúng ta, những thế hệ sau đối với Toàn
Nhật vậy.

Nhưng nếu quả đúng là Toàn Nhật viết Hứa sử truyện văn là để “nhằm đáp ứng
những yêu cầu lư luận chính trị phục vụ cho sự nghiệp xưng đế và chống ngoại xâm
của Quang Trung? Với lư thuyết chống tôn quân, phải chăng nó đă gián tiếp biện
minh cho việc Quang Trung xưng đế và không cần thừa nhận quyền uy của vua Lê”
như sự nhận định của tác giả Toàn Nhật Quang Đài th́ theo tôi không chỉ những
người Phật tử Việt Nam hiện tại mà cả mai sau nữa, phải học lấy bài học mà Toàn
Nhật, với tư cách là một thiền sư đă ủng hộ cuộc cách mạng Tây Sơn như thế nào?
Nghĩa là Toàn Nhật không hề xưng tụng hay tôn sùng cá nhân của Thái Đức Nguyễn
Nhạc hay Quang Trung Nguyễn Huệ mà Toàn Nhật chỉ ủng hộ chính sách đúng đắn
có lợi cho dân cho nước mà cuộc cách mạng Tây Sơn đă đề ra mà thôi.

Khi một cá nhân hay một tổ chức chính trị nào đó đề ra được một chính sách phù hợp
với ḷng dân th́ nhất định cá nhân ấy, tổ chức ấy đương nhiên xứng đáng đứng ra đại
diện cho đất nước chứ không nhất định là họ đă được sanh ra từ giai cấp nào, họ
đang ở trung nguyên hay nơi quê mùa thôn dă.

Trong bối cảnh chính trị và xă hội vào thời của Toàn Nhật ở nửa cuối thế kỷ 18 th́
người đó nhất định không phải là Lê Chiêu Thống, mặc dù ông này được xem là
“chính thống” theo quan điểm của cái gọi là “quốc sử” của mốt số nhà sử học nước
ta cũng như của Trung Quốc, mà người có đủ điều kiện đứng ra đại diện cho đất nước
lúc đó đương nhiên là Quang Trung Nguyễn Huệ, dù Nguyễn Huệ không phải “chính
thống” cũng như không sanh ra ở Trung nguyên mà lại sanh ra tại một nơi xa xôi hẻo
lánh ở tận nơi núi rừng Tây Sơn.

Nhưng con người được sinh ra tại nơi quê mùa ấy lại được một sử gia viết là: “… c̣n
như Nguyễn Huệ là vua Thấi tổ của nhà Nguyễn Tây Sơn, th́ trước giúp anh bốn lần
vào đánh đất Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Xiêm La,
chỉ c̣n được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh,
tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rơ ràng. Ấy là có đủ sức mạnh mà lại biết
làm việc nghĩa.

Nhưng v́ nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để
cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền cho đến nỗi thành
ra tán loạn. Dẫu thế măc ḷng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt
nhà Lê, đặt giám quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế th́ cách ở với nhà Lê
không lấy ǵ làm bạc.

Sau vua Lê Chiêu Thống và Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cứu bên Tàu, vua nhà
Thanh nhân dịp ấy mượng tiếng cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng
sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo mật dụ của vua nhà Thanh, th́ nước
Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đă vào tay người Tàu rồi.

Vậy nước mất, th́ phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng đế, truyền
hịch đi các nơi, đường đường chính chính đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn
quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cá ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi
nước Tàu khiếp sợ, tướng nhà Thanh phải thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta
chưa có vơ công nào lẫm liệt như vậy.

Và đánh đuổi người Tàu đi rồi lấy nước lại mà làm vua th́ có điều ǵ mà trái đạo? Vậy
lẽ ǵ mà gọi là nguỵ triều?” ( Trần Trọng Kim, Sdd trang 360-361.)

Nhưng Toàn Nhật biết rằng triều đại nào rồi cũng sẽ qua đi, kể cả những triều đại
được ca tụng nhất trong lịch sử của loài người xua nay:
Lợi danh tợ bọt nước xao
Hán Đường Triệu Tống th́ nào thấy đâu?
(Xuất gia văn)

Triều đại Tây Sơn dù được ca ngợi là “Bách chiến bách thắng” là “vô địch” th́ cũng
chỉ tồn không đầy nữa thế kỷ, nghĩa là không triều đại nào là “muôn năm” hết.
Bởi vậy, là một tư tưởng gia của Phật giáo, nên Toàn Nhật ư thức được rằng con
đường đi của Phật giáo là: “Phật giáo Việt Nam không gắn bó tuyệt đối với triều đại
nào, dù triều đại đó do Phật giáo dựng lên hay lănh đạo. Phật giáo chỉ gắn bó và
trung thành với quyền lợi dân tộc, quyền lợi của dân chúng mà thôi” (Trần Nhân
Tông toàn tập của Lê Mạnh Thát, NXB TP.HCM năm 2000.).

Chính đó là lư do v́ sao Toàn Nhật ủng hộ cho cuộc cách mạng Tây Sơn mà không
hề ca tụng bất cứ một cá nhân nào trong phong trào ấy, dù đó là cá nhân của Nguyễn
Nhạc hay Nguyễn Huệ.

Dù không trực tiếp nhắc ǵ đến cuộc cách mạng Pháp 1789, nhưng khi đề cập đến tiểu
luận Sa di oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên của Toàn Nhật, Lê Mạnh Thát có
viết rằng:
“Phải chăng nó đáp ứng lại xu thế chung của lịch sử thế giới thời bây giờ, thể hiện
một xu thế đi t́m ánh sáng, đi t́m chân lư, dựa trên khả năng hiểu biết và t́m kiếm của
con người, chứ không c̣n tin tưởng một cách mù quáng vào những ǵ do truyền
thống hay những quyền uy khác truyền lại” (Sdd tập II, trang 290.).

Từ những nhận định trên của tác giả Toàn Nhật Quang Đài, ta thử làm một chút so
sánh th́ sẽ thấy có một sự trùng hợp lạ lùng giữa cuộc cách mạng Pháp 1789 và t́nh
h́nh chính trị cũng như xă hội ở nước ta vào nửa cuối thế kỷ 18.
Nếu các vua Louis 14 và 15 đă giam hăm xă hội Pháp trong 4 vách tường đến vua
Louis 16 th́ người dân của nước Pháp không thể nào chịu đựng sự giam hăm và kiềm
kẹp này được nữa, nên vào ngày 14 tháng 7 năm 1789 đă đồng loạt kéo đến đập phá
tan tành nhà ngục Bastille, nhà ngục này trong nhiều thế kỷ đă là nơi giam giữ những
người yêu nước dám lên tiếng chống đối chế độ, và là tiêu biểu cho chính sách
chuyên chế và hà khắc của chế độ phong kiến Pháp.

Cũng xấp xỉ vào khoảng thời gian đó, Lê Mạnh Thát viết:
“… Nước ta vào thời Toàn Nhật cũng đang đứng trước một t́nh thế hết sức hiểm
nguy. Bên trong th́ các thế lực phong kiến phản động đang suy tàn cấu xé tiêu diệt
lẫn nhau một cách tàn nhẫn trên thống khổ tuyệt vọng của nhân dân. Bên ngoài th́
các thế lực ngoại bang đang lăm le và thực sư lợi dụng t́nh h́nh đó của dân tộc để
thực hiện những mưu đồ xâm lược nham hiểm của chúng. Chính trong t́nh thế đó của
đất nước, mà hàng ngày đă xảy ra những cảnh:
Non chen ngù giáo đỏ cây
Mác hoa đường tuyết, tên bay mát trời
Thảm thương chật đất phơi thây
Đỏ hoe máu rắc đ̣i nơi dầm dề.
(…)

Chúng dân ĺa bỏ xóm giềng
Chằm non trốn núp của tiền đoái chi
Mắc cơn lửa dữ một kỳ
Đá kia ngọc nọ đều th́ cháy leo
(Hứa sử truyện văn)

Xảy ra nhan nhản khắp nơi. Nếu không có một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại dưới
sự lănh đạo thiên tài của Nguyễn Huệ bùng nổ, th́ đất nước tưởng chừng như không
c̣n có cơ sống sót. Nhưng làm sao một sự việc như thế có thể quan niệm được, khi
mà những người như Toàn Nhật xuất thân từ nhân dân đă nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa
nhân đạo chiến đấu, đă nêu cao lư tưởng đạo đức lao động, kiên quyết đứng về phía
những người bị áp bức, nói lên tâm t́nh và nguyện vọng giải phóng của họ. Do thế,
sẽ không có ǵ đáng ngạc nhiên khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn sau khi giành chính
quyền trong cả nước về tay nông dân, đă cùng một lúc đánh bại được hai thế lực
phong kiến phản động trong nước và phong kiến ngoại bang xâm lược, tạo nên một
khí thế hào hùng, đưa dân tộc lên một đỉnh cao của thời đại mới” (Sdd tập I, trang
78-79.).

Nhưng đằng sau bất cứ một cuộc cách mạng nào cũng đều được dưỡng bồi bởi một
sức mạnh tư tưởng trầm lặng nào đó. Nếu đỉnh cao của cuộc cách mạng Pháp là việc
nhân dân nổi dậy phá ngục Bastille vào năm 1789 th́ trước đó người dân cũng đă
thấm nhuần những tư tưởng về tự do, về dân chủ và nhân quyền của các tư tưởng gia
như Voltare, Rousseau, Montesquieu…Cùng thế, đỉnh cao của cuộc cách mạng Tây
Sơn là cuộc đánh bại đoàn quân xâm lược khổng lồ của phong kiến phương Bắc cũng
vào năm 1789 cũng không ra ngoài thông lệ đó, nghĩa là cũng được nuôi dưỡng bởi
một sức mạnh tư tưởng trầm lặng từ truyền thống của dân tộc Việt:

“Trong ṿng hơn 300 năm trở lại đây, Cư Trần lạc đạo Phú và Đắc thú lâm truyền
thành đạo ca đă được in lại nhiều lần. Điều này chứng tỏ tư tưởng Cư Trần lạc đạo
vẫn tiếp tục được học tập và truyền bá dù Phật giáo cũng như đất nước đang chuyển
ḿnh qua một giai đoạn mới. Giá trị lư luận của Cư Trần lạc đạo từ đó vẫn c̣n có sức
hấp dẫn mạnh mẽ, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 18 với những chiến công Ngọc Hồi,
Đống Đa oanh liệt của quân và dân Tây Sơn. Trong đó nổi bật những khuôn mặt Phật
tử nhận ḿnh là người kế thừa truyền thống Trúc Lâm như binh bộ Thượng thư Tỉnh
Phái Hầu Ngô Thời Nhiệm là Hải Lượng Thiền sư, Hương Lĩnh Bá tiến sĩ Nguyễn
Đăng Sĩ là Thiền sư Hải Âu…” (Trần Trọng Kim, Sdd trang 364.).

Lời dặn ḍ sau đây của Quang Trung Nguyễn Huệ với Ngô Thời Nhiệm dưới chân núi
Tam Điệp càng chứng tỏ sự nhận định trên của giáo sư Lê Mạnh Thát là hoàn toàn có
cơ sở:
“Vua Quang Trung cuời mà nói rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó
thôi. Ta ra Bắc chuyến này đích thân coi việc quân đánh giữ, đă định mẹo rồi, đuổi
quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp
10 lần nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo
thù, như thế th́ chỉ đánh nhau măi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ làm thế. Vậy
đánh xong trận này, ta phải nhờ Ngô Thời Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đ́nh chỉ
việc chiến tranh, Đợi mười năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, th́ ta
không cần phải sợ chúng nữa” (Sdd tập II, trang 291.).

Và ta vẫn c̣n nhớ là ngày 28 tháng 10 năm Mậu Thân (1789) khi đại quân của Thanh
triều dưới sự chỉ huy của Tổng đốc lưỡng quản là Tôn Sĩ Nghị vượt ải Nam Quan tiến
về Thăng Long th́ tất cả tướng lănh Tây Sơn ở Bắc Hà bây giờ đều chủ trương đem
quân chặn đánh với lư do suy diễn của họ là “lấy quân nghỉ ngơi mà đánh quân mệt
nhọc” nhưng ư kiến của Ngô Thời Nhiệm th́ lại khác “Toàn quân rút lui, không nên
mất một mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm rồi mai lại đuổi chúng nó đi” và ư kiến của
Ngô Thời Nhiệm đă được Ngô Văn Sở và các tướng lănh Tây Sơn chấp thuận. Nhờ ư
kiến đó mà đại quân của Tây Sơn đă rút lui một cách an toàn về núi Tam Điệp, để tạo
điều kiện cho Quang Trung Nguyễn Huệ thần tốc tiến quân ra giải phóng Thăng
Long chưa đầy 10 ngày.

Như vậy là ảnh hưởng của Thiền phái Trúc Lâm ở đời Trần qua Hải Lượng Thiền sư
Ngô Thời Nhiệm đối với chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa của triều đ́nh Tây Sơn là
hiển nhiên, không cần phải bàn căi ǵ thêm nữa.

Nhưng sau chiến thắng oanh liệt này th́ lịch sử của dân tộc một lần nữa lại bị dang dở
bởi sự ra đi đột ngột của Quang Trung Nguyễn Huệ. Tác giả Toàn Nhật Quang Đài
nói lên sự luyến tiếc cho đất nước cũng như cho giới trí thức như Toàn Nhật đă lỡ mất
cơ hội để đưa dân tộc tiến lên cùng với thế kỷ của ánh sáng:
“Với phong cách và tinh thần làm việc đó, đúng ra bước sang thế kỷ 19 dân tộc ta
phải bước lên vũ đài khoa học thế giới. Thế mà, với sự ngóc đầu dậy của một hệ ư
thức phong kiến cực kỳ phản động, phong cách và tinh thần làm việc của Toàn Nhật
không có cơ hội phát triển và kế thừa, để cuối cùng đất nước ta đă rơi vào tay bọn
xâm lược”.

Một nhà thơ hàng đầu của Việt Nam ở nửa thế kỷ 20 cũng chia xẻ nỗi luyến tiếc này
đối với cái chết của Quang Trung Nguyễn Huệ và sự dở dang của lịch sử dân tộc:
Thôi xin người đừng nức nở
Nếu sau này đường dang dở
Những ai về
Ôm măi mộng người đi
(Nguyễn Huệ - Mưa nguồn)

Toàn Nhật c̣n viết một câu chuyện t́nh tên là Tống Vương truyện. Nội dung kể lại
câu chuyện t́nh giữa chàng thái tử nước Tống đem ḷng yêu một người con gái, con
của một ngư ông nghèo khổ bên bờ sông Vị Thuỷ. Nhưng trước khi đến được với
người con gái chài lưới ở ḍng sông Vị Thủy đó, th́ chàng Thái tử đa t́nh này đă phải
từ chối biết bao nhiêu là công chúa xinh đẹp ở các nước láng giềng muốn chiếm được
trái tim của chàng:

Nước Tần nước Tấn
Nước Sở nước Tề
Toàn những tiên phi
Cùng nàng công chúa
Nước Lương nước Sở
Nước Trịnh nước Tuỳ
Toàn những tiên phi
Cùng nàng quế liễu
Nước Trần nước Triệu
Nước Hán nước Đường
Nhưng mà:
Thái tử chẳng ngó
Mặt ủ dàu dàu
Triều đ́nh xem ai nấy lắc đầu
Ghê mặt thấy đều th́ mất vía
Ở trần gian không có người con gái nào vừa ḷng Thái tử, nên cuối cùng vua cha phải
cầu cứu Ngọc Hoàng:
Tống Vương rằng rầy con đă kén chê
Cha cũng phải cầu tiên thượng giới
Nhưng sau khi:
Bước lên lầu rồng
Xem năm tiên nữ
Xem rồi tự sự
Bèn trở vào đền
Tâu vua cha duyên chẳng xứng duyên
Xin cha chớ ép con sự ấy
Nhưng rồi một hôm:
Ngày giao sự ước chơi vị thuỷ
Th́ trời xui xảy gặp ngư ông
Chèo thuyền đánh cá giữa ḍng
Thái tử lại gần thuyền ngư phủ
Sau khi gặp người con gái của người chài lưới nghèo khổ th́ trái tim Thái tử đă thực
sự rung động:
Mới trở về nhà
Tưởng nàng Thụy nữ
Ta muốn cùng thưa vương phụ
Lại sợ có triều đ́nh
Lo lượng một ḿnh
Sợ người quở phạt
Khi nghe tin Thái tử đem ḷng yêu thương người con gái của người chài lưới nghèo
khổ, nhà vua tức giận mà than thở:
Nhà sinh con vô phúc
Nên rối sửa số căn
Con chư hầu các nước th́ chê
Mà khiến lấy con nhà thuyền rớ
Nhưng ḷng chàng Thái tử đă quyết cùng với sự thương con của hoàng hậu, nên cuối
cùng nhà vua cũng phải miễn cưỡng đồng ư.
Rồi sau khi Thái tử và Thụy nữ, người con gái của người chài lưới đẹp duyên cùng
nhau thi vua cha thoái vị và nhường ngôi cho Thái từ:
Sửa sang chính sự
Ta nay Thái tử
Nối nghiệp trị ngôi
Nội ngoại tề gia
Cùng là ngư phụ
Quốc lăo nội triều
Cha đà tác cao
Trước xe sau gía
Hồi đầu Phật Tổ
Thế phát tu hành
Từ đó:
Con nối ngôi truyền đă tạo thanh
Muôn đời để lưu danh thiên hạ.

Vậy là để đến được với nàng con gái ḿnh yêu Thái tử đă phải đấu tranh quyết liệt
mới có thể vượt qua những công ước giả tạo của xă hội như giàu nghèo, tiện dân hay
quư tộc v.v… Nhưng tác giá Toàn Nhật Quang Đài với cái nh́n của một sử gia đă
nhận xét v́ sao Toàn Nhật đă viết Tống vương truyện:

“V́ vậy, viết Tống vương truyện ca ngợi mối t́nh đẹp đẽ giữa chàng Thái tử quyền
quư với một nàng con gái con nhà chài lưới, thực sự là ngợi ca những nét đẹp của
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, giải phóng những người bị áp bức, tạo cơ hội cho họ lập
nên những chiến công hiển hách, những thành quả văn hoá xă hội rực rỡ. Từ chỗ áp
bức mà đứng lên, họ đă dành cho bản thân một địa vị xứng đáng trong lịch sử dân tộc.
Cũng như loài người. Tả lại: một chàng Thái tử đi t́m một cô gái chài lưới, chính là
khắc họa việc kết hợp giữa lực lượng nông dân với xu thế của thời đại để làm nên
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại” (Sdd tâp II, trang 93.).

Nhưng nếu một người cầm bút mà chỉ biết có ca ngợi các thủ lănh nhà nước đương
quyền, dù là nhà nước đó có được ḷng dân đi nữa, th́ sự ca ngợi đó cũng chẳng có ư
nghĩa ǵ hết, nếu người cầm bút không vạch ra được một lư thuyết, một hướng đi có
lợi cho dân cho nước. Toàn Nhật với tư cách là một nhà văn nhà thơ nhà tư tưởng của
cuộc cách mạng Tây Sơn và đồng thời cũng là một Thiền sư của Phật giáo Việt Nam,
Toàn Nhật biết ḿnh phải làm ǵ để hỗ trợ cho nhà nước Tây Sơn.

“Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, ngoài Lư Trần th́ chỉ ở thời Tây Sơn những người
Phật giáo mới một lần nữa đề cao quan niệm sống thoát ly để nhập cuộc một cách
mạnh mẽ và hào hùng. Điều đó cũng không có ǵ lạ bởi thời đại Tây Sơn đă có những
con người điển h́nh như Ngô Thời Nhiệm và Toàn Nhật” (Sdd tâp II, trang 179.).
Quan điểm sống thoát ly để rồi nhập cuộc một cách mạnh mẽ và hào hùng đó, nếu ở
đời Lưa chỉ mới khởi đầu, phải đợi đến thời Trần th́ quan điểm sống đó mới được áp
dụng một cách triệt để:
“Cách sống đó bắt buộc người ta phải vào đời nhưng phải vượt lên cơi đời, vào đạo
nhưng phải xuyên qua đời. Những nhân vật chính trong các tác phẩm của Toàn Nhật
như Hứa sử truyện văn, Tống vương truyện đều thể hiện quan niệm sống đó của ông.
Họ làm vua rồi họ đi tu, họ đi tu rồi họ đứng ra làm tướng. Phải chăng Toàn Nhật
muốn t́m về nếp sống của các vua nhà Trần Việt Nam” (Sdd tâp II, trang 148.).
Bây giờ người ta xem thử Toàn Nhật của thời Tây Sơn đă “muốn t́m về nếp sống của
các vua đời Trần” như thế nào trong các tác phầm của ông trước hết là Kinh Kim
Cang.

Trong lời tựa cho Thiền Tông chỉ Nam, Trần Thái Tông, vị vua khai sáng ra triều đại
nhà Trần có viết rằng: “Đến các kinh điển của đại giáo th́ không kinh nào là không
nghiên cứu. Trẫm thường đọc Kinh Kim Cang đến câu “ủng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” vừa gấp sách lại ngâm nga bỗng nhiên giác ngộ…” th́ lập tức sau đó Kinh Kim
Cang đă trở thành quyển kinh căn bản nhất của Phật giáo đời Trần. Điều đó ta có thể
dễ dàng nhận thấy khi đọc Cư Trần Lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông hay bài
phú vịnh chùa Hoa Yên của Thiền sư Huyền Quang.

Toàn Nhật ở thời Tây Sơn cũng thế, không những đă viết riêng một tác phẩm có tên
là Bát nhă ngộ đạo văn, trong đó có những câu vô cùng hoành tráng, hoành tráng
chẳng khác ǵ tiếng sấm chẻ:
Cơi Nam đà mở rộng cửa lầu
Đèn trí tuệ hào quang chói chói
Thuyền Bát nhă nghênh ngang bốn cơi
Nước ma ha rữa sạch ba ḷng
Hoặc là:
Cửa Bát nhă vào ra thong thả
Trống đại hùng đà thu ư mă
Chuông Linh sơn hăy tỏa tâm viên
Ngọc mâu ni há dễ khinh tuyền
Kinh Bạch tự dám đâm vọng tiết
Những câu sau đây trong Tham Thiền văn của Toàn Nhật:
Bạn thuyền Bát nhă hôm mai
Xem hoa lập cảnh dồi mài Kim Cang

Hay:

Một nồi hương huệ đất xông
Ba biến kinh ḷng thường niệm hôm mai
Khiến ta nhớ đến những câu:
Khuya sớm sáng chong đèn Bát nhă
Hôm mai rửa sạch nước ma ha
của Huyền Quang Thiền sư ở đời Trần ở thế kỷ 13.
Và cũng như vua Trần Thái Tông nhờ đọc Kinh Kim Cang mà giác ngộ th́ Toàn Nhật
chắc cũng như vậy, nghĩa là cũng nhờ thấy lẽ sắc không của Bát nhă mà ngộ đạo,
như Toàn Nhật đă ghi lại trong một bài thơ bằng chữ Hán:
Trần duyên đoạn hậu tự tiêu dung
Thanh tịnh phương tư sắc thị không
Phật tức tâm hề tâm tức Phật
Thanh Son chỉ tại bạch vân trung
(Trung niên xuất gia)
Lê Mạnh Thát dịch:
Duyên đời đă dứt tự thong dong
Thanh tịnh phương tri sắc thị không
Phật tức ḷng chừ ḷng tức Phật
Ngay trong mây trắng núi xanh rờn

Và mặc dù chỉ là viết lại hành trang của Lục Tổ Huệ Năng, nhưng chúng ta phải hiểu
rằng Toàn Nhật cũng xem Kinh Kim Cang là quyển kinh căn bản nhất để đưa con
người đến chân trời giác ngộ như vua Trần Thái Tông của đời Trần:

Bây giờ cảm động thiết t́nh
Nghe câu sở tục tâm truyền Kim Cang
Trực liền ngộ đặng linh quang
Diệu xưa Phật Tổ thấy toàn chân như

Quan điểm ấy càng rơ ràng hơn nữa khi trong Bát Nhă Ngộ Đạo văn Toàn Nhật lặp
lại:

Giảng cho thông tứ cú Kim Cang
Th́ mới thấy bổn lai diện mục

Dưới ảnh hưởng của những nhà trí thức lỗi lạc của thời đại như Ngô Thời Nhiệm và
Toàn Nhật th́ rơ ràng Kinh Kim Cang cũng trở thành quyển kinh được triều đ́nh Tây
Sơn xem như quyển kinh quan trọng nhằm vạch ra một hướng đi tinh thần cho dân
tộc Việt, điều đó được thể hiện qua việc Ngọc Hân công chúa tức Bắc cung Hoàng
hậu của triều đ́nh Tây Sơn chủ tŕ việc thêu Kinh Kim Cang Bát Nhă lên gấm. Hiện
chùa Trúc Lâm ở Huế vẫn c̣n giữ ǵn tấm thêu bằng gấm này. Bởi vậy, xin được lập
lại câu hỏi rất có ư nghĩa của tác giả Toàn Nhật Quang Đài “Thái độ tôn giáo của triều
đ́nh Quang Trung như thế nào, th́ Ngọc Hân công chúa mới thêu Kinh Kim Cang Bát
Nhă lên gấm chứ!”

Hỏi tức là đă trả lời vậy.

Nhưng ảnh hưởng mănh liệt nhất tinh thần Phật giáo đời Trần đối với Toàn Nhật vẫn
là trong Hứa sử truyện văn. Tôi có cảm tưởng là khi viết tác phẩm này mục đích của
Toàn Nhật không ǵ khác hơn là nhằm giải thích hai tác phẩm quan trọng nhất của đời
Trần là bài tựa Thiền Tông chỉ Nam của vua Trần Thái Tông và Cư Trần Lạc Đạo phú
của vua Trần Nhân Tông.

Trong Thiền Tông chỉ nam, vua Trần Thái Tông đă nói lên nỗi ray rứt cũng như đau
khổ và dằn vặt của ḿnh đối với công danh sự nghiệp: “Lại nghĩ sự nghiệp đế vương
thời trước, hưng phế bất thường, cho nên t́m đến núi này chỉ muốn cầu làm Phật, chứ
không cầu ǵ khác”.

Nhưng Quốc sư Trúc Lâm đă khuyên vua Trần Thái Tông rằng:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong ḷng. Lặng lẽ mà hiểu, đó chính là
chân Phật. Nay nếu bệ hạ giác ngộ tâm đó th́ lập tức thành Phật, không nhọc t́m bên
ngoài”

Nhưng sau câu nói ấy, Quốc sư Trúc Lâm thấy nhà vua vẫn phân vân lưỡng lự chưa
chịu xuống núi, nên Quốc sư mới nói tiếp:
“Phàm đă là bậc nhân quân th́ phải lấy ư muốn của thiên hạ làm ư muốn của ḿnh, lấy
tấm ḷng của thiên hạ làm tấm ḷng của ḿnh. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về th́ bệ
hạ không về sao được! Duy chỉ có việc nghiên cứu nội điển th́ xin bệ hạ đừng chút
xao ḷng mà thôi”.

Chính v́ đời Trần đă “lấy ư muốn của thiên hạ làm ư muốn của ḿnh, lấy tấm ḷng của
thiên hạ làm tấm ḷng của ḿnh” một cách triệt để, nên không có ǵ lạ trong hơn một
thế kỷ tồn tại, vương triều Trần không chỉ một lần mà cả đến ba lần đánh bại đội quân
xâm lược hung hăn mà thời bấy giờ chỉ mới nghe nhắc đến Tartar (Thát Đát) thôi th́
đă lên cơn sốt rồi. Nhưng không chỉ mạnh về mặt quân sự, mà trên mặt văn học tư
tưởng cũng thế, nghĩa là cũng “lấy tấm ḷng của thiên hạ làm tấm ḷng của ḿnh” nên
nền văn học đời Trần đă phát triển rực rỡ. Dù bị kẻ ngoại xâm cũng như thiên tai địch
họa phá hủy rất nhiều, nhưng những ǵ c̣n lại của nền văn học ấy vẫn tiếp tục nuôi
dưỡng ḷng tự hào dân tộc cho đến ngày hôm nay. Bởi thế ta chẳng lấy ǵ làm lạ, vào
những năm cuối cùng của thế kỷ 20, một phần của nhân loại đă nhận ra rằng, những ư
thức hệ ngoại lai mà bấy lâu nay họ tôn thờ thực sự chẳng giúp ích ǵ cho sự phát
triển của quốc gia họ cả, mà c̣n gây ra không biết bao là thống khổ và hận thù cho
dân tộc họ nữa.

Bởi vậy, hơn bao giờ hết, cái h́nh bóng cô đơn heo hút của “một lăo Tăng sống trên
núi hoang, xương gầy mặt vơ, ăn rau đắng, nếm hạt dẻ, chơi cảnh rừng, uống nước
suối, ḷng như mây nổi” trên núi Yên tử cách đây bảy thế kỷ căn dặn nhà lănh đạo
của dân tộc Việt “phải lấy ư muốn của thiên hạ làm ư muốn của ḿnh, lấy tấm ḷng của
thiên hạ làm tấm ḷng của ḿnh” đă trở thành một bức thông điệp khẩn thiết hơn bao
giờ hết đối với dân tộc Việt Nam trong lúc này.

Trong Hứa sử truyện văn của thiền sư Toàn Nhật của thời Tây Sơn, Đồng Vân, một vị
quan bách chiến bách thắng đang trấn giữ miền biên giới của nước Trung Quốc Việt
Vương cùng ám ảnh nỗi sầu muôn thuở ấy của kiếp người như Trần Thái Tông của
đời Trần:

Đời tham cả lộc cao ngôi
Ví như lá vược hớp mồi mắc câu
Tuổi xanh khiến sớm bạc đầu
Phút đau lại chết khổ sầu mà thôi

Và Đồng Vân cũng đă vứt bỏ cả lộc cao ngôi bỏ vợ con lên chùa xuất gia với thiền sư
Mật Hạnh.

Khi nghe tin Đồng Vân đă xuất gia, th́ Triệu Tân bên nước láng giềng liền ráo riết
chuẩn bị xâm lăng:

Lệnh truyền tướng tá các nha
Chỉnh tu binh mă can qua sẵn sàng
Triệu Tân mới cất binh sang
Ngựa ăn chật nội quân hàn dăy non.
Chỉ mới có giao tranh trận đầu quân của nước Trung Quốc Việt vương đă thảm bại v́:
Triệu Tân tài mạnh tột đời
Tướng việt sa thế, ră rời chạy đi
Triệu Tân sách mà huy kỳ
Trống sáu reo đuổi ầm ỷ vang rân
Quân việt ră chạy rần rần
Triệu Tân chém tướng tưng bừng Đông Tây

Không c̣n cách nào hơn, vua Việt vương đành phải cùng các quan xa giá đến chùa
để xin Đỗng Vân cứu nguy xă tắc.

Cũng như Trần Thái Độ đă cùng với các quan trong triều lên tận núi Yên Tử để xin
vua Trần Thái Tông hăy v́ xă tắc mà xuống núi.

Trong Thiền Tông chữ Nam, Trần Thái Độ đă thưa với Trần Thái Tông:
“Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời trăn trối bên tai c̣n đó. Thế
mà bệ hạ lại lánh gót ẩn cư nơi núi rừng, để theo đuổi cái chí riêng của ḿnh. Như thần
nghĩ, bệ hạ tính kế tự tu đă vậy, nhưng c̣n quốc gia xă tắc th́ sao?”
Trong Hứa sử truyện văn, vua Việt Vương cũng đă nói với quan Đỗng Vân những lời
tương tự:

Vả ông dũng lược ân oai
Triệu Tân ni đă sợ tài xưa nay
Xin ông phương tiện ra tay
Chống đàn xă tắc khỏi ngày khuynh nguy
Đạo là cứu độ từ bi
Nước nghèo dân chết bỏ đi nỡ nào
Ḱa lời tục ngữ thường rao
Liền giết một mèo, cứu chuột muôn con
Xin ông đoái tưởng cựu ân
Ra tay giúp nước cứu dân phen này
Sau đó thiên sư Mật Hạnh, thầy của Đỗng Vân đă phải giải thích mọi thắc mắc trong
ḷng của Đỗng Vân, v́ Đỗng Vân đang phân vân lưỡng lự là có nên tránh xa xă hội
loạn lạc đau khổ để đi t́m hạnh phúc riêng cho ḿnh không?
Mật Hạnh lời mới tỏ phân
Chúng ta v́ tưởng bốn ân tu hành
Gặp cơn ác Đảng tung hoành
Dễ ta đâu khá nỡ đành ngồi coi
Huống thêm nghĩa cũ vua tôi
Ḿnh vàng hiểm trở xa xôi t́m vời
Phải chi vũ lực tột đời
Cũng ra giúp người thầy chẳng tiếc công
Vả chăng quyền xảo thích trung
Bồ Tát đa hạnh thiệt trong đạo này
Làm sao mà đặng lợi người
Giúp nước cứu đời cũng một việc tu.
Như vậy là thiền sư Mật Hạnh đă bảo cho Đỗng Vân, đệ tử của ḿnh biết rằng “giúp
dân cứu nước” mới mới là việc quan trọng nhất của người xuất gia.
Một sự thắc mắc nữa cũng không kém phần quan trọng là giới sát. Nếu một người đă
xuất gia mà tham dự chiến tranh th́ có phạm giới sát không?
Hăy c̣n ngại việc sát sanh
Thôi lại quỳ gối thưa tŕnh bổn sư
Thầy phân tôi đă hiệp cơ
Nhưng mà c̣n ngại, hăy chưa yên tĩnh
Vả như một sự sát sinh
Đầu trong các giới, chẳng khinh thiệt thà
Dầu kẽ tại gia xuất gia
Chẳng dám trái phạm ấy là phép chung
Nhẫn loài nhỏ nhít côn trùng
Cũng chẳng nên giết huống đồng loại ta
Nay tôi chấn động can qua
Sao cho khỏi hại người ta bây giờ
Thiền sư Mật Hạnh đáp rằng:
Giả như cố ‎ư bất nhân
Buông ḷng sát hại tội dường hằng sa
Vốn nay v́ sự nước nhà
Cứu dân giúp nước, sao mà chẳng nên
Luật rằng phương tiện xảo quyền
Tùy cơ lội vật, pháp trần xưa nay
Đỗ Trường Ấn phong hai thầy
Ở trong quân trận ngày ngày ngăn binh
Qui Tôn giết rắn làm lành
Việc xưa tỏ chép đành rằng đến nay
Sau khi dẫn chứng truyện xưa, thiền sư Mật Hạnh nói cho Đỗng Vân biết chuyện của
ngày hôm nay, nghĩa là ngày hôm nay muôn dân cũng đang rên siết dưới sự bạo tàn
của kẻ xâm lược:
Vả như luận sự giặc này
Triệu Tân một đứa, tai đầy muôn dân
Buông ḷng tham ngược bất nhân
Vạn thặng căm hờn, thiên hạ nghiến răng
Ḷng trời ắt cũng chẳng ưng
Để vầy quen nó lung lăng quấy th́
Kinh rằng đại lực đại bi
Hay ông tới đó mặc khi máy dùng
Trước ra văn đức vỗ ḷng
Bằng nó cứng cổ sẽ dùng gia binh
Ông hăy cứ việc thi hành
Diêm vương bắt tội thầy đành chịu thay
Vậy là kể từ khi lư tưởng Bồ tát được Lục Độ Tập kinh công bố: “Bồ Tát thấy dân kêu
ca, do vậy gạt lệ, xông vào chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than” th́ tuyên
ngôn ấy đến nửa cuối thế kỷ 18 lại được những con người đang nuôi dưỡng lư tưởng
Bồ tát khẳng định mạnh mẽ hơn nữa:
Trước ra văn đức vỗ ḷng
Bằng nó cứng cổ sẽ dùng gia binh
Ông hăy cứ việc thi hành
Diêm vương bắt tội thầy đành chịu thay
Lư do có lẽ cũng không có ǵ khó hiểu cho lắm. Nếu như những thế kỷ trước đó, dân
tộc ta chỉ có một kẻ thù ở Phương Bắc, th́ đến nữa cuối thế kỷ 18, phong trào Tây
Sơn không những chỉ đối đầu với ba tập đoàn phong kiến bên trong (Trịnh Lê
Nguyễn) mà c̣n phải đối đầu với Phương Bắc và Xiêm La ở Phương Nam và đặc biệt
một kẻ thù mới c̣n nguy hiểm hơn, đó là việc các tàu chiến của các nước Tây phương
đang cấu kết với tay sai trong nước ngày đêm lăng văng ngoài bờ biển của phía Nam
tổ quốc với mục đích là đưa tôn giáo mới vào nhằm thay thế những tôn giáo đă được
dân tộc tiếp thu từ những ngày đầu mới lập quốc. Trong Bát Nhă Ngộ đạo văn Toàn
Nhật đă đau ḷng thốt lên:
Sao chẳng nhớ câu chân giả
Mà học thói Tây Phương!
Và cũng như Trần Thái Tông nghe lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm mà xuống núi,
th́ Đổng vân trong Hứa sử truyện văn của Toàn Nhật ở thời Tây Sơn cũng phải rời
chùa Huệ Lâm, để ra tay cứu vớt muôn dân đang sống trong cảnh lầm than. Toàn
Nhật tả lại cảnh Đỗng vân xuống núi xuất quân như sau:
Một mai trận thượng cất ra
Giặc ấy chẳng đánh nó mà cũng tan
Ví dầu nó có chống ngang
Nghe ta đóng lịnh, giao thương hăy dùng
Dụ thôi mới bát tiên phương
Tả chi, Hữu dực, Trung quân ân cần
Hậu tiếp đốc binh Đỗng vân
Bát rồi rắt rắt rần rần kéo qua
Chư quân đều niệm Di Đà
Trước sau nổi tiếng nghe ḥa vang rân
Khắp trong quận huyện quan dân
Dựng cờ ứng nghĩa rần rần kéo ra
Con thề đánh trả thù cha
Em nguyện liều thác, báo ḥa thù anh
Vậy là dù ư muốn của Trần Thái Tông là ở lại với núi Yên tử để t́m sự giải thoát riêng
cho ḿnh, nhưng cuối cùng theo lời dạy của Quốc sư Trúc Lâm “Phàm đă là bậc nhân
quân tất phải lấy ư muốn của thiên hạ làm ư muốn của ḿnh”, mà ư muốn của thiên hạ
là phải xuống núi, nên Trần Thái Tông phải xuống núi trở lại và Đỗng vân trong Hứa
sử truyện văn của Toàn Nhật cũng thế, nghĩa là cũng muốn ở lại Chùa để t́m sự an
lạc riêng cho ḿnh, nhưng theo lời khuyên của Thiền sư Mật Hạnh cũng phải rời Chùa
để cứu muôn dân ra khỏi chốn nô lệ lầm than.
Trong Tống vương truyện, sau khi Thái tử nước Tống lấy con gái của một người chài
lưới nghèo khổ, th́ nhà vua nhượng ngôi cho con để “hồi đầu Phật tử, thế phát tu
hành”, c̣n trong Hứa sử truyện văn, vị quan Đỗng vân sau khi dẹp xong quân ngoại
xâm th́ vua nước này là Việt vương cũng đă “tuổi cao tỉnh ngộ, hỏi ḍ Phật gia” để
rồi cuối cùng:
Cởi quăng ngọc toă kim già
Cao xương huệ kiếm, diệt tà vô minh
(…)
Đều hay lánh chốn trần lao
Vượt ra ma vơng, thẳng vào Phật môn
Dường như v́ h́nh bóng của các vua Trần ở thế kỷ 13 nhất là Trần Thái Tông và Trần
Nhân Tông, những ông vua có thể nói là minh triết nhất trong lịch sử dân tộc ta, sau
khi đánh bại ngoại xâm, đất nước thái b́nh thịnh trị th́ cũng đều nhường ngôi lại cho
con mà xuất gia học đạo. Phải chăng những ông vua đó vẫn luôn luôn là h́nh bóng
“lư tưởng” mà Toàn Nhật muốn triều đại Tây Sơn cũng phải có những ông vua như
đời Trần oanh liệt?

Không biết khởi đầu từ bao giờ nhưng có phần chắc là kể từ khi Thái tử Tất Đạt Đa từ
bỏ ngôi vua vào rừng sâu để t́m đạo, kể từ khi Lăo Tử cỡi trâu đi biệt tăm sau khi đă
giao bản thảo đạo đức kinh cho Doăn Hỷ th́ có lẽ vấn đề mới được đặt ra là: Nếu
muốn thành tựu con đường sống đạo th́ nên vào rừng ở ẩn hay là cứ ở lại chốn phồn
hoa đô hội mà vẫn làm chủ được tâm ḿnh không hề bị đời sống phồn hoa cám dỗ. Đó
chính là vấn đề được hai tác giả lớn của đời Trần đề cập. Từ câu nói lừng danh của vị
quốc sư Trúc Lâm trên núi Yên Tử ở thế kỷ 13: “trong núi vốn không có Phật, Phật ở
ngay trong ḷng” đến hai câu mở đầu bài phú Cư Trần lạc đạo của Trần Nhân Tông:

Ḿnh ngồi thành thị
Nết dụng Sơn Lâm

Trong Hứa Sử truyện văn của thiền sư Toàn Nhật, Hứa Sử cùng đặt vấn đề ấy với
Việt Vương:

Thị thành lại với lâm tuyền
Tu hành công đức hai đường đâu hơn?
Việt Vương trả lời:
Nay thầy lời đă hỏi ta
Lấy trong sự lư phân ra cho tường
Lâm truyền thanh cảnh náu nương
Đặng phần tịch mịch, khỏi đường huyên hoa
Song thời cũng ở ḷng ta
Ḷng ta thanh tĩnh, cảnh hoà cùng thanh
Dẫu mà ở chốn non xanh
Ḷng c̣n loạn động thị thành khác chi
Thị thành xao xuyến nhiều bề
Ḷng ta thanh tĩnh khác ǵ Sơn Lâm
Tu hành yếu vốn tại tâm
Nếu nệ nơi cảnh, mắc lầm hoà hai

Ta phải hiểu thế nào về quan điểm trên của Toàn Nhật, có phải Toàn Nhật muốn nói
như thế này chăng:

“Điều quan trọng không phải là sống ở thị thành hay núi rừng. Vấn đề là làm sao giác
ngộ được sự thật. Đấy mấu chốt của vấn đề. Ta đă thấy sự giác ngộ có thể t́m thấy ở
bất cứ nơi đâu, đặc biệt là chính giữa cuộc đời trần tục đầy những hệ lụy thế sự.
Chính trong cuộc sống trần tục ấy mà giác ngộ được th́ giá trị c̣n nâng lên gấp bội”.
C̣n một vấn đề quan trọng nữa mà tôi nghĩ rằng có lẽ Toàn Nhật cũng muốn triều đại
Tây Sơn phải tiếp tục con đường mà đời Trần đă vạch ra, đó là vấn đề sử dụng chữ
Quốc âm. Khi đọc những bài thơ chữ Hán của Toàn Nhật, tác giả Toàn Nhật Quang
Đài nhận xét rằng:

“… qua những bai thơ chữ Hán, chứng tỏ khả năng sử dụng chữ Hán văn rất điêu
luyện và thành thục của Toàn Nhật. Điều hăy c̣n cho ta thấy là việc phần lớn tác
phẩm Toàn Nhật viết bằng tiếng quốc âm không có nghĩa là ông không thể sử dụng
chữ Hán. Ngược lại, dù là một người rất giỏi chữ Hán nhưng ông đă t́m về với tiếng
nói của dân tộc để chuyển tải những ǵ ḿnh muốn nói với nhân dân. Ư muốn xây
dựng một nền văn học quốc âm, không chỉ dân tộc mà c̣n cho Phật giáo, đă đặt Toàn
Nhật không những vào những nhà thơ lớn của dân tộc mà c̣n của Phật giáo. Thứ
đến, với những bài thơ đó nền văn học quốc âm của dân tộc ta vào cuối thế kỷ 18 và
đầu thế kỷ 19 chứng tỏ sự đa dạng và phong phú với những t́nh tự và nhận thức của
những con người khác nhau” (Sdd tập II, trang 265.).

Tiếng quốc âm của dân tộc ta chắc chắn đă có từ rất lâu, có thể từ các triều đại vua
Hùng trước Tây lịch, nhưng “chỉ đến thời vua Trần Nhân Tông, với hai tác phẩm của
ḿnh là Cư Trần lạc đạo phú và đắc thú lâm truyền thành đạo ca cùng Vịnh Vân Yên
tự phú của thiền sư Huyền Quang (1234-1334) và giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi
(1284-1361), th́ nền văn học tiếng việt mới có những tác phẩm đầu tiên hoàn chỉnh
của ḿnh c̣n được bảo tồn đến ngày nay. Vị trí văn học của vua Trần Nhân Tông do
thế đối với dân tộc ta rất là vĩ đại”(Trần Nhân Tông toàn tập Sdd trang 269-270.).
Cố học giả Trần Trọng Kim trong phần viết về việc học hành và thi cử đời Tây Sơn có
nói rằng: “việc cai trị thường hay dùng chữ Nôm. Nhà vua muốn nói rằng người Việt
Nam th́ phải dùng tiếng Việt Nam, để gây thành cái tinh thần của nước nhà, và cái
văn chương đặc biệt, không phải đi mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi
thi cử thường bắt quan ra bài chữ Nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ Nôm. Thời bây
giờ nhiều người không hiểu rơ cái ư nghĩa sâu xa ấy, cho là nhà Tây Sơn dùng hà
chính mà ức hiếp nhân dân” (Trần Trọng Kim Sdd trang 375.).

Bằng chứng hùng hồn về ḷng tự hào đối với tiếng nói của dân tộc ḿnh, đó là việc
vua Quang Trung đă dơng dạc đọc bản tuyên ngôn độc lập bằng tiếng Nôm trước ba
quân trước khi xuất quân đi đánh đuổi quân Tàu:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luôn bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho nó sử tư Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ

Nếu quả đúng Toàn Nhật là tướng của Tây Sơn hay quan trọng hơn nữa là mưu thần
của vua như hai tác giả Nguyễn Đ́nh Chúc và Huệ Nguyễn đă xác nhận trong tác
phẩm biên khảo Lịch sử Phật giáo và các chùa ở Phúc Yên th́ chắc hẳn việc sử dụng
tiếng Nôm như tiếng chính thức trong hành chánh công như trong thi cử của triều
đ́nh Tây Sơn Quang Trung th́ tất nhiên phải có sự đóng góp công sức lớn lao của
Toàn Nhật, vị thiền sư đă hết ḷng yêu thương tiếng nói của dân tộc ḿnh, và mặc dù
rất giỏi chữ Hán nhưng đă để lại gần hai mươi tác phẩm bằng chữ Nôm.

Và không c̣n hồ nghi ǵ nữa, một người biết trân trọng tiếng Nôm mà c̣n là một
Thiền sư của Phật giáo Việt Nam th́ qua hai tác phẩm Cư Trần lạc đạo phú và Đắc thú
lâm truyền thành đạo ca, Toàn Nhật đă ư thức một cách triệt để rằng “Tiếng Việt như
một ngôn ngữ có thể phát biểu những tư tưởng trừu tượng tương đối khó nắm bắt một
cách khéo léo và dễ hiểu. Từ đó Tiếng Việt đă từ thành một ngôn ngữ đủ khả năng
chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng khác nhau nào và có vẻ đẹp riêng của nó” (Trần
Nhân Tông toàn tập, Sdd trang 274.).

Lời kết:
Chúng ta, những người Phật tử Việt Nam nên nh́n sự hưng thịnh cũng như suy vong
như thế nào của lịch sử Phật giáo Việt Nam qua các thời đại? Và có phải chỉ có các
triều đại Đinh Lê và nhất là Lư Trần th́ mới đựơc xem là thời kỳ hưng thịnh nhất của
Phật giáo Việt Nam chăng ?

“Chẳng hạn, các triều đại Đinh, Lê, Lư, Trần thay đổi khác nhau, hết triều đại này tới
triều đại kia, nhưng Phật giáo vẫn vươn lên phát triển và có những đóng góp to lớn
cho dân tộc. Điều này chứng tỏ bên ngoài sự thay đổi của các triều đại, dân tộc vẫn
phát triển theo tính quy luật của nó, bất chấp ư chí chủ quan của một triều đại. Có vẻ
như dân tộc có một sức sống của riêng nó, và Phật giáo biết bám vào sức sống này
của dân tộc để cùng dân tộc đi lên. Các triều đại thay đổi và chúng đă không đáp ứng
được yêu cầu của sức sống dân tộc, nên đă bị loại bỏ” (Lịch sử Phật giáo Việt Nam
tập II của Lê Mạnh Thát - NXB TP Hồ Chí Minh 2001, lời tựa.).

Giả như không có trường hợp của Toàn Nhật th́ quan điểm trên về lịch sử Phật giáo
Việt Nam của giáo sư Lê Mạnh Thát khó có thể chấp nhận đối với nhiều người, v́ ai
cũng có thói quen nghĩ rằng, chỉ có Đinh, Lê và đặc biệt là Lư, Trần mới là thời cực
thịnh của Phật giáo Việt Nam, c̣n sau đó th́ Phật giáo suy tàn và Nho giáo đă thay
thế chỗ đứng của Phật giáo. Nhưng v́ có trường hợp của thiền sư Toàn Nhật nên
theo tôi quan điểm lịch sử ấy hoàn toàn chính xác, nghĩa là Toàn Nhật đă tham gia
cuộc Cách mạng của Tây Sơn, v́ theo quan điểm của Toàn Nhật cuộc Cách mạng ấy
phù hợp với ḷng dân nhưng khi cuộc Cách mạng Tây Sơn tan ră, triều đại khác lên
thay, Toàn Nhật nhận thấy triều đại ấy không đáp ứng được yêu cầu của sức sống
dân tộc th́ vị thiền sư của chúng ta chỉ c̣n “biết bán vào sức sống của dân tộc”.
Kết quả là, ngày nay chúng ta có được gần 20 tác phẩm bằng tiếng quốc âm, mà theo
giáo sư Lê Mạnh Thát th́: “Kho tàng văn học cổ điển Việt Nam chưa bao giờ có một
nhà thơ nhà văn để lại một lượng lớn tác phẩm bằng tiếng quốc âm như Toàn Nhật.
Chỉ với số lượng đó thôi, nó đă biển thị không những sức sống dạt dào của dân tộc
đang lên thể hiện qua tiếng nói nhân dân”(Sdd tập I, trang 11-12.).

Nhưng theo tôi, điều quan trọng nhất trong quan điểm đó là, chúng ta những người
Phật giáo Việt nam hiện tại cũng như mai sau nên “bám vào sức sống của dân tộc để
đi lên” thay v́ chỉ biết bám vào các triều đại hay các Nhà nước, v́ “các triều đại sẽ
phải thay đổi khi không c̣n đáp ứng được yêu cầu của sức sống dân tộc”.
Vậy là, chỉ có “bám vào sức sống của dân tộc” th́ Phật giáo Việt nam mới có thể tồn
tại măi trong ḷng của dân tộc mà thôi.

Có phải đó là bài học lịch sử lớn lao mà thiền sư Toàn Nhật ở nửa cuối thế kỷ 18 đă để
lại cho chúng ta, những người Phật giáo Việt Nam hôm nay chăng?

Nha Trang, mùa Vu Lan 2550
T.P.A.