II. PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa có
nêu lên các phương pháp thực hành như sau:
1- Giới học Phổ Môn:
Bài kệ sau đây là tiêu biểu cho giới học Phổ Môn:
“Bi thể giới lôi chấn
Từ ư diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền năo diệm”.
Nghĩa là:
Giới pháp thể đại bi
Khởi thân oai như sấm
Diệu pháp tâm đại từ
Như mây lớn phủ khắp
Rưới mưa pháp cam lồ
Dập tắt lửa phiền năo.
Giới pháp của Phổ Môn, giới pháp ấy từ nơi bản thể đại bi do đại nguyện
vô tận của ư, đại thệ vô tận của ngữ và đại hạnh vô tận của thân mà sinh
khởi và thành tựu.
Nên, Giới pháp nầy được gọi là Giới pháp Phổ môn. Giới pháp Phổ Môn lấy
tâm đại bi làm bản thể; lấy tâm đại từ làm dụng, lấy hết thảy các tướng
làm thân tướng cứu độ và sử dụng hết thảy âm thanh làm đối tượng quán âm
để diễn bày diệu pháp.
Do đó, Giới Học Phổ Môn không phải chỉ giới hạn trong một thời mà tất cả
thời. Không phải chỉ giới hạn trong một xứ mà tất cả xứ; không phải chỉ
giới hạn trong một thân mà tất cả thân, không phải chỉ giới hạn trong một
chủng loại mà tất cả chủng loại.
Như vậy, ta hành tŕ theo Giới Học Phổ Môn, th́ bất cứ lúc nào, bất cứ ở
đâu và bất cứ biểu hiện thân ǵ, ta đều hành động theo bản thể đại bi và
theo tâm ư đại từ, để dập tắt phiền năo cho hết thảy chúng sanh, đem lại
sự an lạc cho muôn loài.
2- Định Học Phổ Môn:
Bài kệ sau đây là tiêu biểu cho Định Học Phổ Môn:
“Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán,
Bi quán cập từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng”.
Nghĩa là:
Quán chiếu đúng sự thật
Quán chiếu thật thanh tịnh
Quán chiếu trí tuệ lớn
Quán chiếu bằng đại bi
Quán chiếu bằng đại từ
Thường ước nguyện tu tập
Thường chiêm nghiệm ngưỡng mộ.
Trong bài kệ nầy đă đưa ra năm phương pháp thiền quán hay Định Học Phổ Môn
như sau:
2/1 Chân Quán:
Chân là chân thật, sự thật. Quán là nh́n sâu vào đối tượng. Đối tượng để
cho ta nh́n sâu vào có thể là thân thể, có thể là các cảm giác, có thể là
chủng tử tâm hành, có thể là các pháp ngoài tâm như sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp, và cũng có thể là các pháp ở nội tâm, như những ảnh tượng của
sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đang tồn đọng trên tâm, hoặc đă thành
chủng tử và đang ch́m sâu vào tàng thức. Và đối tượng để nh́n sâu ấy, cũng
có thể là tổng thể của năm uẩn hay tự thân của mỗi uẩn.
Như vậy, Chân Quán là nh́n sâu vào các đối tượng để phát hiện sự thật đang
có mặt ở nơi những đối tượng ấy.
Sự thật ở nơi các đối tượng mà Chân Quán Phổ Môn phát hiện là:
+ Hết thảy pháp không có pháp nào có tự thể thực hữu.
+ Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, và hạt giống Phật cũng sinh khởi
do duyên.
+ Giáo pháp trong tam thừa là do đức Phật vận dụng, nên chúng là giả lập.
+ Nhất thừa pháp là pháp cứu cánh, pháp chân thật của chư Phật giáo hoá.
+ Bản thể chân như ở nơi các pháp đang sinh diệt của thế gian là bất diệt,
nên bản thể tịch diệt của thế gian là bản thể thường trú, do đó đức Phật
nói Nhất thừa để làm cho chúng sanh thấy được bản thể chân như ấy mà ngộ
nhập.
Nên, Chân Quán là pháp quán của Phổ Môn, pháp quán ấy làm cho hành giả
Pháp Hoa thường ước nguyện tu tập, thường ngưỡng mộ và thường chiêm
nghiệm.
2/2 Thanh Tịnh Quán:
Thanh Tịnh là trong sạch, trong sáng, không c̣n dơ bẩn.
Thanh Tịnh Quán là sự quán chiếu có nội dung thanh tịnh. Sự quán chiếu
trong suốt, sự quán chiếu không c̣n bị vô minh, khát ái, chấp thủ và
nghiệp hữu làm vẩn đục. Và thanh tịnh quán là quán chiếu để thấy rơ bản
thể vắng lặng ở nơi mọi sự hiện hữu.
Thanh Tịnh Quán là sự quán chiếu trong suốt, không bị ngă tưởng ngăn ngại.
Do đó, Thanh Tịnh Quán là sự quán chiếu thấy rơ:
+ Giới thể đại bi là giới thể hoàn toàn thanh tịnh và châu biến pháp giới.
+ Báo thân và ứng hóa thân từ nơi pháp thân thanh tịnh mà hiện khởi để hóa
độ chúng sanh.
+ Tích môn và hạnh môn từ nơi bản môn mà hiện khởi.
+ Phật tính là bản nguyên tự tánh thanh tịnh của hết thảy chúng sanh.
+ Và bản thể của các pháp xưa nay thường thanh tịnh và vắng lặng.
Nên, Thanh Tịnh Quán là pháp quán của Phổ Môn, pháp quán ấy là xuyên suốt
mọi pháp quán, khiến cho tâm của hành giả vẫn thường trú trong Niết Bàn mà
thân của hành giả th́ phổ biến cùng khắp cả mười phương để hóa độ chúng
sanh mà vẫn không rời đương xứ tịch diệt.
Do đó, pháp quán nầy là pháp quán mà hành giả Pháp Hoa thường ước nguyện
tu tập, thường ngưỡng mộ và chiêm nghiệm.
2/3 Quảng Đại Trí Tuệ Quán:
Quảng Đại Trí Tuệ là trí tuệ rộng lớn. Trí tuệ rộng lớn là Đại Bát Nhă.
Quảng Đại Trí Tuệ Quán là sự quán chiếu bằng trí tuệ rộng lớn.
Quán chiếu bằng trí tuệ rộng lớn, không những thấy tự tánh của năm uẩn là
không, mà c̣n thấy tự thân của mỗi uẩn cũng đều là không, vốn không có tự
tánh.
Do đó, Quảng Đại Trí Tuệ Quán là sự quán chiếu thấy rơ:
+ Ngă và pháp đều không
+ Thực tướng của các pháp là tịch diệt tướng, vô tướng, hay là không
tướng.
+ Phiền năo và Bồ đề không phải là hai thực thể tách biệt.
+ Niết Bàn và sinh tử, Phật và chúng sanh là hai mặt biểu hiện của tâm.
2/4 Bi Quán:
Bi là đại bi, là khả năng cứu độ rộng lớn. Khả năng cứu độ ấy, không phải
trong một chủng loại mà hết thảy chủng loại, không phải trong một phương
mà khắp cả mười phương, không phải một pháp giới mà cả thập pháp giới. Khả
năng cứu độ như vậy gọi là đại bi
Như vậy, Bi Quán là khả năng quán chiếu để thực hiện hạnh nguyện cứu độ
rộng lớn, cứu độ toàn diện và cùng khắp.
Nên, Bi Quán là khả năng quán chiếu, để thấy rơ thể tánh chơn như giữa chủ
thể cứu độ và đối tượng được cứu độ không phải là hai, chúng thiệp nhập
vào nhau và nhất thể.
Do đó, Bi Quán là khả năng quán chiếu để xâm nhập vào thể tính bất nhị của
pháp giới; và thường trú trong thể tính bất nhị ấy, mà biểu hiện thân
tướng và bản nguyện để cứu khổ chúng sanh khắp cả pháp giới. Do Bi Quán mà
khởi lên hạnh nguyện: “Tự tánh phiền năo thệ nguyện đoạn và đoạn trừ vô
tận phiền năo”.
Nên, Bi Quán là pháp quán của Phổ Môn, pháp quán ấy làm cho hành giả Pháp
Hoa thường ước nguyện tu học, thường ngưỡng mộ và chiêm nghiệm.
2/5 Từ Quán:
Từ là đại từ, là khả năng thương yêu và hiến tặng niềm vui rộng lớn cho
tất cả muôn loài.
Khả năng ấy, không phải chỉ đối với một chủng loại mà hết thảy cả muôn
loài; không phải chỉ đối với một phương mà khắp cả mười phương; không phải
chỉ đối với một pháp giới mà khắp cả mười pháp giới. Khả năng thương yêu
và hiến tặng niềm vui như vậy, gọi là đại từ.
Như vậy, Từ Quán là khả năng quán chiếu để thực hành hạnh nguyện thương
yêu rộng lớn, toàn diện và cùng khắp, đem lại sự an lạc cho hết thảy chúng
sanh.
Nên, Từ Quán là khả năng quán chiếu và ôm ấp nỗi đau và Bi Quán là khả
năng quán chiếu để chuyển bạt nỗi đau thành những chất liệu hạnh phúc an
lạc cho chúng sanh.
Bi Quán là bản thể cứu độ và Từ quán là tác dụng của sự cứu độ; Bi quán có
khả năng đoạn trừ Tập đế, từ quán có khả năng đoạn trừ Khổ đế.
Do đó, Từ Quán là khả năng quán chiếu để xâm nhập vào mọi hiện trạng khổ
đau của toàn thế chúng sanh trong pháp giới, nhằm thấy rơ thể tính chơn
như giữa chủ thể thương yêu và đối tượng được thương yêu không phải là hai
thực thể tồn tại cá biệt, mà chúng tương tác lên nhau và có mặt trong
nhau.
Phân đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử là những nỗi sợ hăi thâm sâu, không
phải là cá biệt mà là phổ biến cho hết thảy muôn loài, nên Từ Quán là khả
năng mở rộng tấm ḷng, mở rộng tầm nh́n và mở rộng vô số cánh tay để ôm ấp
hết thảy chúng sanh đang bị những nỗi sợ hăi ấy vào ḷng, vào nơi Từ
nguyện của ḿnh và dùng Từ tâm để xoa dịu và soi sáng; đồng thời dùng Bi
quán để chuyển bạt không những những hạt giống vô minh, khát ái, chấp thủ
tự ngă nơi tâm thức chúng sanh, mà c̣n chuyển bạt những hạt giống vô minh
trụ địa, là những hạt giống lưu trú và lặn ch́m tận đáy sâu tâm thức, nơi
gốc rễ chế tác ra những vô minh, vọng tưởng về những ngă ái và pháp ái của
chúng sanh nữa.
Nên, Từ Quán của Phổ Môn là khả năng biểu hiện vô số thân tướng tươi mát
để đối thoại, chia sẻ và cảm thông với vô lượng nỗi khổ đau của chúng
sanh, nhưng Bi quán của Phổ môn lại có khả năng biểu hiện vô số thân tướng
hùng tráng để trực diện và thọc sâu vào tâm thức của chúng sanh, nhằm đánh
bạt những sào huyệt tập khởi của chúng, nơi mà đă chế tác ra những chất
liệu khổ đau.
Bi Quán có khả năng xóa sạch mọi vết thương ḷng, mọi cấu uế của tâm và Từ
quán lại có khả năng chăm sóc, khiến cho vết thương ḷng không tái phát,
và những cấu uế của tâm không c̣n điều kiện để biểu hiện.
Bởi, Từ Quán và Bi Quán của Phổ Môn là vậy, nên hành giả Pháp Hoa thường
ước nguyện tu học, chiêm nghiệm và ngưỡng mộ pháp quán ấy.
3.- Tuệ Học Phổ Môn:
Tuệ Học Phổ Môn, ta thấy được diễn tả trong bài kệ sau đây:
“Vô cấu thanh tịnh quang
Tuệ nhật phá chư ám,
Năng phục tai hỏa phong
Phổ minh chiếu thế gian”. (Những kệ tụng tóm thâu mọi ư nghĩa của Giới Học
Phổ Môn, Định Học Phổ Môn, Tuệ Học Phổ Môn, được dẫn ra từ kệ tụng Phổ Môn
do Bồ Tát Vô Tận Ư toát yếu để tŕnh lên Đức Phật. Phổ Môn Phẩm, Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh, Bản Hán dịch của Ngài La Thập, tr 58, Đại Chính 9.)
Nghĩa là:
Ánh sáng trong không bẩn,
Mặt trời tuệ phá ám,
Điều phục nạn gió lửa,
Chiếu sáng khắp thế gian.
Bài kệ nầy nói lên Tuệ học của Phổ Môn.
Nói rằng, Tuệ học của Phổ Môn thanh tịnh, không ô nhiễm, nên không c̣n bị
các phiền năo làm chướng ngại và cũng không bị vô minh làm chướng ngại tuệ
giác.
Nên, Tuệ học Phổ Môn có ba tác dụng cùng khắp và toàn diện:
3/1 Toàn diện đối với tâm:
Đối với tâm Tuệ Học Phổ Môn có khả năng phá sạch hết phiền năo chướng, sở
tri chướng, đưa tâm trở lại với bản nguyên tự tánh thanh tịnh. Nên hai câu
kệ đầu nói:
“Vô cấu thanh tịnh quang
tuệ nhật phá chư ám”.
“Vô cấu thanh tịnh quang” (ánh sáng trong, không dơ bẩn), là bản thể của
tuệ giác, hay bản thể của tuệ học, và là bản thể của Niết Bàn tịch tịnh.
Do đó, “Vô cấu thanh tịnh quang” là một cách nói khác về Diệt đế.
C̣n, “Tuệ nhật phá chư ám”, (mặt trời tuệ phá ám) là tác dụng của bản thể
tuệ giác, hay tác dụng của bản thể tuệ học đối với các loại vô minh phiền
năo của chúng sanh trong pháp giới.
Hay nói cách khác, ấy là tác dụng của Diệt đế đối với Tập đế.
3/2 Toàn diện đối với cảnh:
Đối với cảnh, Tuệ Học Phổ Môn có khả năng tác động làm thay đổi cảnh khổ
đau thành cảnh an lạc, cảnh tai nạn thành cảnh an toàn.
Nên, câu kệ thứ ba nói: “Năng phục tai phong hoả” (điều phục nạn gió,
lửa). Chỉ có Tuệ giác Phổ Môn mới có khả năng điều phục và chuyển hóa các
tai nạn ở trong thế gian, mà câu kệ nêu lên hai tai nạn tiêu biểu là gió
và lửa, nhưng tai nạn thâm sâu của thế gian là bị sinh tử, là sự sống chết
không có tự do.
Tai nạn do lửa, nước, gió, qủy, thiên tai, địa chấn, binh đao, vương nạn…,
gốc vẫn từ nơi tham dục, sân hận, ngu si, chấp ngă của con người mà sinh
ra.
Nên, điều phục và chế ngự các tai nạn ấy, chính là điều phục và chế ngự
tâm xấu ác của con người, bằng Tuệ Giác Phổ Môn.
Với Tuệ Học Phổ Môn, ta điều phục và chế ngự các tai nạn thuộc Khổ đế bằng
cách chế ngự và chuyển hoá những hạt giống gây ra tai nạn đang được huân
tập và sinh khởi từ Tập đế.
Với sự điều phục và chế ngự như vậy, là sự chế ngự và điều phục tai nạn,
điều phục Khổ đế có tính cách xuyên suốt và phổ biến từ nhân tới quả.
Đó là sự điều phục và chế ngự tai nạn của Tuệ Giác Phổ Môn.
Hay nói cách khác, đó là sự điều phục và chế ngự tai nạn của Đạo đế đối
với Khổ đế và Tập đế.
3/3 Toàn diện đối với cả tâm và cảnh:
Tuệ Học Phổ môn soi chiếu cùng khắp tâm và cảnh của hết thảy chúng sanh
trong pháp giới, đem lại lợi ích cho cả thế gian và xuất thế gian. Nên,
câu sau cùng của bài kệ là “Phổ minh chiếu thế gian” (chiếu sáng khắp thế
gian), tuệ giác ấy soi chiếu một cách b́nh đẳng đối với hết thảy chúng
sanh trong pháp giới không có kỳ thị, phân biệt, không bị ngăn che bởi cái
ǵ. Và ánh sáng ấy cũng soi chiếu một cách b́nh đẳng đối với các bậc Hiền
thánh ở trong các địa vị tu chứng, nhưng chúng sanh và các bậc Hiền thánh,
tuỳ theo nhân duyên của ḿnh, mà tiếp nhận và tiêu thụ ánh sáng tuệ giác
ấy để thay đổi tâm cảnh, chuyển hoá thân tâm, nhằm trở thành và thể nhập
hoàn toàn với tuệ giác ấy.
Do đó, “Phổ minh chiếu thế gian” là tuệ giác soi chiếu cùng khắp, nên cả
chủ thể và đối tượng soi chiếu đă thiệp nhập vào nhau và cùng khắp trong
nhau, không c̣n có bất cứ một sự ngăn ngại nào.
“Phổ minh chiếu thế gian” là tuệ giác toàn diện, tuệ giác xuyên suốt, từ
bản thế đến hiện tượng, từ tâm đến cảnh, từ pháp thân đến ứng hóa thân, từ
nhân đến quả, từ thể tính nhất như mà xuyên suốt hết thảy vạn tượng.
Bởi vậy, Tuệ Học Phổ môn là tuệ học xuyên suốt và toàn diện cả bản thể lẫn
hiện tượng, cả tâm lẫn cảnh, cả Phàm lẫn Thánh.
Ngoài bài kệ trên, ta c̣n có bài kệ nói rơ về sự thực tập Tuệ Học Phổ môn
như sau:
“Diệu âm, Quán Thế âm,
Phạm âm, Hải Triều âm,
Thắng bỉ thế gian âm,
Thị cố tu thường niệm”. (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7, tr 58, Đại Chính 9.)
Nghĩa là:
Tiếng nhiệm, tiếng nh́n đời
Tiếng phạm, tiếng hải triều
Tiếng vượt hẳn thế gian
Nên phải thường quán niệm.
Bài kệ nầy giúp ta năm phương pháp quán chiếu của Tuệ học:
1. Diệu Âm: là âm thanh mầu nhiệm, âm thanh tinh tế và sâu thẳm.
Mọi âm thanh biểu hiện đều do duyên khởi không có tự tánh, và do không có
tự tánh, nên mọi biểu hiện của mọi âm thanh đều là diệu hữu và v́ là diệu
hữu, nên âm thanh ấy gọi là Diệu Âm. Và chỉ có Diệu Âm mới diễn xướng diệu
pháp.
Nên, hành giả Pháp Hoa phải lắng nghe mọi âm thanh phát ra từ các pháp
duyên khởi, để thành tựu diệu trí, ngộ nhập diệu âm mà diễn xướng diệu
pháp, và phổ cập diệu pháp đến cả muôn loài, nhằm khai, thị, ngộ, nhập
Phật tri kiến cho họ.
2. Quán Thế Âm: là âm thanh do nh́n cuộc đời mà diễn xướng; do quán chiếu
về duyên khởi, về vô thường, về vô ngă mà nói ra; do quán chiếu về Khổ đế
và Tập đế mà nói ra; do quán chiếu về Diệt đế và Đạo đế mà nói ra; do quán
chiếu tính chất lưu chuyển và hoàn diệt của nguyên lư Mười hai duyên khởi
mà nói ra; do quán chiếu năm uẩn đều không có tự tánh mà nói ra; do quán
chiếu tự tánh thanh tịnh của Lục độ mà nói ra; do quán chiếu Bồ đề hiện
khởi từ phiền năo mà nói ra; do quán chiếu Niết bàn có mặt ở trong sinh tử
mà nói ra và do quán chiếu mà thấy hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và
đều có khả năng thành Phật mà nói ra. Tiếng nói phát ra từ sự quán chiếu
như vậy, gọi là Quán Thế Âm.
Như vậy, Quán Thế Âm là tiếng nói nh́n vào cuộc đời mà nói, trực diện với
cuộc đời mà nói, nói đúng với tự thân của mọi sự hiện hữu giữa cuộc đời.
Tiếng nói như vậy là tiếng nói của chân trí đă thể nhập chân lư. Và trí lư
bất nhị.
Nên, hành giả Pháp Hoa, phải học tiếng nói nh́n cuộc đời mà nói, để ngay
nơi tiếng nói ấy là tiếng nói của diệu pháp, tiếng nói của Pháp Hoa, tiếng
nói có khả năng khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến cho hết thảy muôn loài.
3. Phạm Âm: là âm thanh giống Phạm thiên. Theo Bà La Môn giáo, Phạm Thiên
là chúa tể sinh ra muôn loài, nên âm thanh của Phạm Thiên là âm thanh
trong sạch và là khởi điểm của mọi âm thanh.
Nhưng, Phạm âm của Phổ Môn không phải hiểu theo nghĩa ấy.
Phạm âm của Phổ Môn là tiếng nói chân thật, tiếng nói đúng với thể tính
chân như, đúng với giới thể đại bi, với thân tướng đại từ, với những hành
động đại hỷ và đại xả.
Do đó, Phạm âm là tiếng nói phát ra từ bản thể đại bi. Ấy là tiếng nói của
b́nh lặng và hùng tráng, có khả năng khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến
cho hết thảy muôn loài.
Đây là tiếng nói mà hành giả Pháp Hoa phải thường học tập và quán chiếu để
thể nhập, nhằm tuyên diễn diệu pháp, khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến
cho hết thảy chúng sanh.
4. Hải Triều Âm: là âm thanh của sóng biển, tiếng nói của sóng biển, là
tiếng nói sinh động phát ra từ pháp giới trùng trùng duyên khởi. Nên,
tiếng nói nầy, không làm trở ngại tiếng nói kia, tiếng nói kia không làm
trở ngại tiếng nói nầy, chúng tương tác lên nhau mà âm thanh phát ra liên
tục và vô tận.
Âm thanh như vậy, là đối tượng của trí quán, để phát hiện ra tính không,
không làm trở ngại hữu, và tính diệu hữu không làm trở ngại không. Chính
tính không là diệu hữu và chính diệu hữu là tính không, chúng tương dung,
tương nhiếp với nhau.
Do tuệ quán đối với âm thanh của sóng biển như thế, mà thành tựu trí tuệ
chân thật, trí tuệ toàn giác.
Đây là tiếng nói mà hành giả Pháp Hoa phải thường học tập, quán chiếu và
thể nhập, để có khả năng diễn xướng diệu pháp nhằm khai, thị, ngộ, nhập
Phật tri kiến cho muôn loài.
5. Thắng Bỉ Thế Gian Âm: là âm thanh vượt hẳn mọi âm thanh ở trong đời. Ấy
là âm thanh xuất thế.
Như đức Thế Tôn nói:
“Đây là Khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo. Đây là Khổ nên biết, đây
là Tập nên đoạn, đây là Diệt nên chứng, đây là Đạo nên tu. Đây là Khổ đă
biết, đây là Tập đă đoạn, đây là Diệt đă chứng, đây là Đạo đă tu.
Đây là Mười hai duyên khởi, đây là phần lưu chuyển của Mười hai duyên
khởi, đây là phần hoàn diệt của Mười hai duyên khởi.”
Hoặc nói:
“Ta có sức phương tiện
Khai thị pháp tam thừa
Hết thảy Đấng Thế Tôn
Đều nói đạo Nhất thừa.
Nay trong đại chúng nầy
Hăy loại trừ nghi ngờ
Lời chư Phật giống nhau
Chỉ có pháp Nhất Thừa”. (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, tr 8, Đại Chính 9.)
Nói bằng âm thanh như vậy, chính âm thanh ấy là âm thanh vượt hẳn mọi âm
thanh của thế gian và xuất thế gian.
Những âm thanh như vậy, được nói lên từ trí tuệ của Bậc Toàn giác cho hết
thảy chúng sanh và Hiền thánh trong pháp giới, nên những âm thanh ấy hành
giả Pháp Hoa cần phải lắng nghe, học tập, quán chiếu để sinh khởi tuệ
quán, nhằm khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến cho hết thảy chúng sanh
trong pháp giới.
Trong năm loại âm thanh: Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm,
Thắng Bỉ Thế Gian Âm, là sự phân định âm thanh theo từng loại đối tượng
của tuệ quán.
Nhưng, ta quán chiếu cho thật sâu sắc, th́ chúng là những âm thanh biểu
hiện tùy theo mức độ thuần tịnh của tâm và mức độ sâu cạn của tuệ quán.
Ta lắng nghe và quán chiếu cho thật sâu sắc, ta sẽ nhận ra trong Diệu Âm
lại có mặt của Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm và Thắng Bỉ Thế Gian Âm.
Và ta lắng nghe và quán chiếu thật sâu sắc, th́ trong mỗi âm đều có đủ các
âm khác.
Do đó, năm loại âm thanh nầy là đối tượng của tuệ quán mà hành giả Pháp
hoa phải luôn luôn ghi nhớ để thực tập, nhằm sinh khởi tuệ giác Nhất thừa,
hoằng truyền kinh Pháp Hoa cho hết thảy căn cơ chúng sinh khắp mọi nơi
chốn.
III. TIN, HIỂU VÀ CẢM NHẬN
Đọc tụng, thọ tŕ và nghiên cứu
Kinh Pháp Hoa, ta thấy rơ ở kinh Pháp Hoa không phải chỉ diễn tả về Bản
Môn và Tích Môn, mà c̣n diễn tả về Hạnh Môn một cách linh hoạt và sống
động nữa. Có những Nhà nghiên cứu Kinh Pháp Hoa cho rằng, mười bốn phẩm
đầu là thuộc về Tích môn và tư tưởng chủ yếu của Tích Môn được gói trọn ở
phẩm Phương Tiện, và mười bốn phẩm sau thuộc về Bản Môn, và tư tưởng chủ
yếu được gói trọn ở phẩm Như Lai Thọ Lượng, nhưng ta đọc tụng, thọ tŕ và
nghiên cứu kỹ, th́ kinh Pháp Hoa không phải chỉ đề cập đến Bản Môn và Tích
Môn mà c̣n đề cập đến Hạnh Môn nữa.
Phẩm Phổ Môn là một trong những phẩm diễn tả về Hạnh Môn của kinh Pháp
Hoa. Và đọc tụng, thọ tŕ, nghiên cứu kỹ kinh Pháp Hoa, ta thấy trong mỗi
phẩm của kinh Pháp Hoa đều hàm chứa đầy đủ cả Bản Môn, Tích Môn và Hạnh
Môn. Ngay ở trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, sự có mặt của Đức Phật
Đa Bảo và Bảo tháp của Ngài là sự có mặt của Bản Môn. Và Đức Phật Thích Ca
trả lời những câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ư về hạnh nguyện và uy lực của Bồ
Tát Quán Thế Âm, đó là sự có mặt của Hạnh Môn ở trong Tích Môn và Bản Môn.
Sự có mặt của Đức Phật Đa Bảo và Tháp của Ngài ở trong phẩm nầy là sự có
mặt của Bản Môn, để ấn chứng cho những ǵ đang diễn ra và đang được tŕnh
bày của Đức Phật Thích Ca ở Tích Môn là đúng với Bản Môn. Nghĩa là Đức
Phật Đa Bảo là Đức Phật Bản Môn đă ấn chứng cho những ǵ đức Phật Thích Ca
nói với Bồ Tát Vô Tận Ư, về Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm là đúng như tự
thân và bản thể của chính nó.
Bồ Tát Vô Tận Ư, sau khi nghe Đức Phật Thích Ca nói về Hạnh Môn Pháp
Hoa của Bồ Tát Quán Thế Âm, liền khởi tâm cung kính, cỡi ngay chuỗi ngọc
châu Anh Lạc giá trị trăm ngàn lượng vàng mà cúng dường Bồ Tát Quán Thế
Âm, nhưng Bồ Tát Quán Thế Âm đă một mực từ chối không nhận. Bồ Tát Vô Tận
Ư liền thưa với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Thưa Nhân giả! Xin Người hăy
thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc châu Anh Lạc nầy!”. Và bấy giờ, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Bồ Tát hăy
thương Bồ Tát Vô Tận Ư nầy, cũng như hăy thương bốn chúng gồm Ưu bà tắt,
Ưu bà di, Tỷ khưu, Tỷ Khưu Ni, hăy thương các Chúng Trời, Rồng, Dạ xoa,
Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân và phi
nhân…, mà hăy nhận lấy chuỗi ngọc châu Anh Lạc!”
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm, v́ thương tứ chúng, cũng như hết thảy chúng
sanh, mà nhận chuỗi ngọc châu Anh Lạc, và sau đó, Bồ Tát liền chia chuỗi
ngọc châu Anh Lạc làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Đức Phật
Thích Ca và một phần dâng lên cúng dường Tháp của Đức Phật Đa Bảo”. (Phổ
Môn Phẩm, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, tr 7, Đại Chính 9.)
Sự cúng dường chuỗi ngọc châu Anh Lạc của Bồ Tát Vô Tận Ư là nói lên sự
tin, hiểu và cảm nhận sâu xa của ḿnh đối với Hạnh Môn Pháp Hoa của Bồ Tát
Quán Thế Âm, sau khi Bồ Tát Vô Tận Ư đă nghe, Đức Phật Thích Ca giảng dạy
về Hạnh Môn Pháp Hoa của vị Bồ Tát ấy. Và Bồ Tát Quán Thế Âm, v́ thương Bồ
Tát Vô Tận Ư, cũng như thương hết thảy chúng sanh, mà nhận chuỗi ngọc châu
Anh Lạc và đă đem chuỗi ngọc châu Anh Lạc ấy, phân làm hai, một phần dâng
lên cúng dường Đức Phật Thích Ca, và một phần dâng lên cúng dường Tháp của
Đức Phật Đa Bảo. Chính hành động cúng dường ấy của Bồ Tát Quán Thế Âm, là
để khai, thị, ngộ, nhập phật tri kiến cho Bồ Tát Vô Tận Ư, khiến cho vị Bồ
Tát nầy, tin và hiểu rằng: Hạnh Môn Pháp Hoa của Bồ Tát Quán Thế Âm, Bản
Môn Pháp Hoa của Đức Phật Đa Bảo và Tích Môn Pháp Hoa của Đức Phật Thích
Ca là ba mặt của Một Thực Tại Siêu Việt. Thực Tại Siêu Việt ấy, chính là
Nhất Thừa Phật Đạo.Và đồng thời cũng đă nói lên rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm
đă nhận chuỗi ngọc châu Anh Lạc từ Bồ Tát Vô Tận Ư, và Ngài đă dâng chuỗi
ngọc ấy, lên cúng dường Đức Phật Thích Ca và Tháp của Phật Đa Bảo là để
khai thị cho Bồ Tát Vô Tận Ư tin và hiểu rằng: Giữa đức Phật Bản Môn, Đức
Phật Tích Môn và Bồ Tát Hạnh Môn chỉ là Một.
Trong Bồ Tát Hạnh Môn có Phật Bản Môn và có Phật Tích môn; trong Phật
Bản Môn có Phật Tích Môn và có Bồ Tát Hạnh Môn, trong Phật Tích Môn có
Phật Bản Môn và Bồ Tát Hạnh Môn, nên từ trong Bồ Tát Hạnh Môn, Bồ Tát Quán
Thế Âm đang biểu hiện Bản Môn và Tích Môn, nhận chuỗi ngọc châu Anh Lạc
cúng dường từ Bồ Tát Vô Tận Ư để dâng lên cúng dường Đức Phật Thích Ca và
Tháp Phật Đa Bảo, nhằm hướng dẫn sự tu tập của vị Bồ Tát nầy hướng đến
Nhất Thừa Phật Đạo.
Bồ Tát Vô Tận Ư ở trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa là tiêu biểu cho Bồ
Tát Thừa; và Tứ chúng Tỷ khưu, Tỷ Khưu Ni, Ưu bà tắt, Ưu bà di là tiêu
biểu cho Thanh văn Thừa, cũng như hết thảy Đại chúng Trời, Người, A tu
la…, là tiêu biểu cho Thiên Thừa và Nhân Thừa, đều đă được Bồ Tát Quán Thế
Âm hướng dẫn phát tâm hướng đến Nhất Thừa Phật Đạo. Và với Bồ Tát Hạnh
Môn, Bồ Tát Quán Thế Âm đă từ chối nhận sự cúng dường chuỗi ngọc châu Anh
Lạc của Bồ Tát Vô Tận Ư, nhưng đối với Bản Môn và Tích Môn, Bồ Tát Quán
Thế Âm đă nhận chuỗi ngọc châu Anh Lạc để cúng dường Đức Phật Thích Ca và
Tháp của Phật Đa Bảo, nhằm hiển thị rằng, mọi hoạt động của Bồ Tát là đều
hướng đến Nhất Thừa Phật Đạo, mà không bị mắc kẹt ở nơi nhân và pháp của
Bồ Tát Thừa. Nên, Bồ Tát Hạnh Môn chỉ là phương tiện của Phật Môn vậy.
Bởi vậy, Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm là Hạnh Môn luôn luôn gắn liền
với hai chất liệu của Đại Bi và Đại Trí. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh là
tiêu biểu cho Hạnh Môn Đại Trí của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm ở ngay giữa đại chúng, gọi Tôn giả Xá Lợi
Phất mà tuyên thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh với tất cả Đại Trí của
ḿnh. Theo Quảng bản Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh nói rằng: “Sau khi Bồ
Tát Quán Tự Tại nói thần chú Bát Nhă Ba La Mật Đa xong, liền gọi Tôn giả
Xá Lợi Phất và các vị Đại Bồ Tát mà nói rằng: Đối với Bát Nhă Ba La Mật Đa
thâm diệu, nên học như vậy, nên hành như vậy”.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ nơi hạnh phúc an lạc của thiền định mà xuất,
gọi Bồ Tát Quán Thế Âm mà ca ngợi rằng: “Hỡi Thiện nam tử, thật tuyệt vời
thay, thật tuyệt vời thay! Đúng như lời Người nói: Bát Nhă Ba La Mật Đa là
rất thâm diệu, nếu hành tŕ, th́ nên hành tŕ như vậy, hành đúng như vậy.
Và khi ấy các Đức Như Lai cũng đều hoan hỷ”.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói như vậy xong, Tôn giả Xá Lợi Phất, Bồ Tát
Quán Thế Âm và hết thảy hội chúng Trời, Người, A tu la…, nghe Đức Thế Tôn
dạy như vậy, đều đại hoan hỷ, tín thọ và phụng hành”. (Đại Chính 8, tr 850
– 852.)
Và, Thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, là tiêu biểu cho Hạnh Môn Đại Bi của Bồ
Tát Quán Thế Âm.
Bấy giờ, ngay giữa Đại chúng ở nơi Núi Phổ Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm bạch
với Đức Thế Tôn rằng: “Con có Thần chú Đà la ni của tâm đại bi, nay muốn
tuyên thuyết: V́ muốn cho hết thảy chúng sanh có được sự an lạc; v́ muốn
loại trừ hết thảy bệnh tật cho chúng sanh; v́ muốn cho hết thảy chúng sanh
được sống lâu và giàu có; v́ muốn diệt trừ hết thảy ác nghiệp và trọng tội
cho chúng sanh; v́ muốn cho hết thảy chúng sanh thoát ly chướng nạn; v́
muốn tăng trưởng các công đức của pháp thanh tịnh cho chúng sanh; v́ muốn
cho hết thảy chúng sanh thành tựu tất cả thiện căn; v́ muốn cho hết thảy
chúng sanh xa ĺa tất cả những nỗi sợ hăi và v́ muốn cho hết thảy chúng
sanh nhanh chóng thành tựu mọi ước muốn, nên cúi xin đức Thế Tôn từ bi
thương xót, chấp nhận cho con tuyên thuyết thần chú!”.
Bấy giờ, Đức Phật dạy với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Hỡi Thiện Nam Tử!
Người v́ tâm đại bi, muốn làm an lạc cho hết thảy chúng sanh, nên tuyên
thuyết thần chú, nay là đúng lúc, cần phải nói một cách nhanh chóng, Như
Lai tùy hỷ và Chư Phật cũng vậy”. (Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh, tr 106, Đại
Chính 20.) Như vậy, Thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni là Hạnh Môn của Bồ Tát
Quán Thế Âm.
Đại Bi và Đại Trí là hai chất liệu tạo nên Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế
Âm. Hai chất liệu Hạnh Môn nầy của Bồ Tát Quán Thế Âm là doThần chú Đại Bi
và Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh tạo thành, mà chính bản thân Bồ Tát Quán
Thế Âm trực tiếp tuyên thuyết cho đại chúng lúc bấy giờ và đă được Đức Thế
Tôn trực tiếp ấn chứng. Hai chất liệu tạo nên Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế
Âm nầy, đă ảnh hưởng toàn bộ lên đời sống tu học của hầu hết Tăng Ni phật
tử Á Châu theo truyền thống Bắc Phạn suốt cả một chiều dài lịch sử.
Hiện nay hầu hết nghi lễ tụng niệm của Tăng Ni Phật tử Việt Nam, mở đầu là
tụng Thần chú Đại Bi và kết thúc bằng Bát Nhă Tâm Kinh, nghĩa là mở đầu
bằng Đại Bi và kết thúc bằng Đại Trí. Đưa Đại Bi đi tới với Đại Trí và đưa
Đại Trí rọi vào trong Đại Bi. Đại Trí và Đại Bi không thể tách rời nhau
trong đời sống tu tập của Tăng Ni Phật tử.
Nên, Đại Bi và Đại Trí không thể nào thiếu trong một thời khóa nghi lễ,
hay một thời khóa công phu tu tập, hoặc nơi mỗi hành động xuất xử của Tăng
Ni phật tử Việt Nam. Nếu thiếu một trong hai, những hành xử của người tu
sẽ nghiêng về một phía, hoặc là quá siêu việt, hoặc là quá thực dụng.
Người nào tu tập mà nghiêng về một trong hai phía, đời sống của người ấy,
sẽ mất thăng bằng và có thể bị găy đổ. Nên, hai chất liệu Đại Bi và Đại
Trí gắn liền với nhau trong đời sống của một người biết tu tập, giống như
đôi cánh chim gắn liền nơi thân thể của một con chim Đại Bàng.
Thần chú Đại Bi và Bát Nhă Tâm Kinh là Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Hạnh Môn ấy đă tạo thành những nét văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng và phương
pháp tu tập, kết hợp hài ḥa độc đáo cho những người con phật. Và đó là
Hạnh Môn tu tập chuyển hóa tâm linh và độ đời một cách thiết thực và thâm
diệu của Tăng Ni phật tử Việt Nam đă trải qua rất nhiều thế hệ, và chính
nó cũng đă tạo thành thể thống nhất, xuyên suốt, linh hoạt và độc đáo của
Đạo Phật Việt Nam.
Nên, Hạnh Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm được diễn tả ở phẩm Phổ Môn trong
Kinh Pháp Hoa là tiêu biểu cho tính thể và tác dụng của một Đạo Phật xuyên
suốt, thống nhất, sống động, độc đáo, và siêu việt ngay trong thực tế./.
T. T. H.
|