TIỂU SỬ CỐ H̉A THƯỢNG THƯỢNG TỊCH HẠ TRÀNG TRÚ
TR̀ ĐỜI THỨ VII TỔ Đ̀NH LINH SƠN
Ḥa thượng họ Hồ, húy Thăng, pháp danh Tâm Thanh, hiệu Tịch Tràng. Ngài
sanh năm Kỷ Dậu (1909), tại làng Lỗ Giáng, xă Cẩm Lệ, huyện Ḥa Vang, tỉnh
Quảng Nam. Thân phụ là cụ Hồ Tưởng - thường gọi là cụ Cửu Đẩu - tinh thông
nho học, làm quan Cửu phẩm Văn Giai; thân mẫu là cụ Phạm Thị Liên.
Thời thơ ấu, Ngài được song
thân chăm lo giáo dưỡng rất chu đáo, đặc biệt là
quan tâm đến vấn đề học vấn, nhờ vậy năm 20 tuổi Ngài thi đỗ bằng Thành
Chung và được bổ nhiệm dạy học tại trường Pháp-Việt ở Tây Hồ (nay là
trường PTCS Trưng Vương, Tp. Đà Nẵng). Ngoài thời giờ dạy học ra, Ngài c̣n
tinh chuyên nghiên cứu giáo lư nhà Phật và am hiểu một cách tường tận. Khi
phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung do Quốc sư Phước Huệ khởi
xướng Ngài đến chùa Trúc Lâm (Huế) xin thọ Tam quy, Ngũ giới với Ḥa
thượng Giác Tiên, được Ḥa thượng cho Pháp danh là Tâm Thanh. Vốn được
thấm nhuần giáo lư nhà Phật, nhận thức được sự mong manh giả tạm của kiếp
nhân sinh... Nên đến năm Mậu Dần (1938), Ngài lặng lẽ từ giă gia đ́nh,
quyết chí xuất gia cầu Đạo. Trên đường du phương học đạo, Ngài qua Cao
Miên (Campuchia), tại đây Ngài được hội kiến Ḥa thượng Thích Quảng Đức,
thật là một cơ duyên hy hữu khiến Ngài hoan hỷ phấn chấn vô cùng. Năm 1939, khi nghe tin Thiền sư Minh Tịnh (húy Nhẫn Tế) vừa du học từ Tây
Tạng về, Ngài liền t́m đến chùa Thiên Chơn tại Thủ Dầu Một, tỉnh B́nh
Dương để xin thọ giáo với Thiền sư, được Thiền sư ấn chứng và ban cho Ngài
pháp hiệu là Tịch Tràng. Đồng liêu với Ngài là 3 vị sư huynh: Viên Chiếu,
Tịch Chiếu và Thường Chiếu. Năm 1941, Ḥa thượng Quảng Đức thường về chùa Thiên Chơn đàm đạo với Thiền
sư Minh Tịnh. Tại đây Ḥa thượng gặp Ngài, biết là pháp khí có thể làm
rường cột cho Phật Pháp mai sau nên mời Ngài về Vạn giă, tỉnh Khánh ḥa để
đảm nhận trọng trách Trú tŕ ngôi Tổ đ́nh Linh sơn mà Ḥa thượng đang gánh
vác. Nhận ủy thác của Ḥa thượng Quảng Đức, Ngài về Tổ đ́nh Linh sơn để
chu toàn sứ mệnh “Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh”, “ Kế thế truyền
đăng tục diệm”. Nơi đây non nước hữu t́nh, cảnh Phật trang nghiêm khiến
ḷng xúc động nên Ngài cảm khái bài thơ sau đây:
«Ngàn năm mới gặp cảnh chùa này,
Cây che tàng lọng giữa trời xây.
Cảm ứng Từ Bi thương mấy độ,
Thỏa ḷng mong ước bấy lâu nay.
Am tranh khuya sớm nhang đèn, lạy,
Dưa muối chiều hôm dạ thảo ngay.
Kinh Kha sông Dịch không quay lại,
Phăng dấu t́m trâu đáp nghĩa Thầy».
Cuối năm 1945, chiến tranh Việt-Pháp lại bùng nổ, làm cho nhân dân hết sức
thống khổ lầm than. Do đó, dân làng khắp nơi trong quận quy tụ về xung
quanh chùa để nương tựa. Nhờ sự hộ tŕ của Tam Bảo, cũng như đức độ của
Ngài mà mọi người được yên ổn. Dần dần Ngài đă cảm hóa họ phát tâm thọ tŕ
Tam quy, Ngũ giới trở thành Phật tử tại gia- hộ tŕ Tam Bảo.
Năm 1954, Ngài khởi công xây dựng Ngôi Chánh điện (do Ḥa Thượng Thích
Quảng Đức trú tŕ đời thứ 6 Tổ đ́nh Linh sơn đặt viên đá đầu tiên). Đến
năm 1956 công tŕnh xây dựng Ngôi Chánh điện được hoàn thành và Ngài đă tổ
chức lễ khánh thành rất trọng thể. Sau đó, Ngài tiếp tục xây dựng Đông
lang và Tây lang. Công cuộc kiến thiết ngôi Tổ đ́nh đến đây tạm hoàn tất.
Từ đó, Ngài tập trung vào vấn đề tu tập và tiếp Tăng độ Chúng. Hằng ngày
ngoài sáu thời lễ bái ra, Ngài c̣n dạy cho Tăng chúng tu học. Mỗi năm đến
mùa An cư-Kiết hạ, chư Tăng khắp nơi quy tụ về trụ xứ nầy tu học rất đông
dưới sự hướng dẫn của Ngài. Năm 1960, sự kỳ thị Tôn giáo của chế độ Ngô Đ́nh Diệm khiến cho tăng ni và
tín đồ vô cùng điêu đứng khổ sở. Bản thân ngài cũng bị tay sai của nhà cầm
quyền đương thời đe dọa, ám hại... nhưng đức độ của Ngài không những tự
ḿnh tránh khỏi tai họa, ngược lại c̣n cảm hóa họ trở về quy hướng Tam
bảo. V́ thế, uy đức của Ngài ngày càng vang rộng. Trước đó cũng như trong
thời gian này, c̣n có quí Ngài như: Ḥa thượng Thích Hưng Từ, Ḥa thượng
Thích Vĩnh Thọ, Ḥa thượng Thích Viên Giác, Ḥa thượng Thích Chơn Không,
Ḥa Thượng Thích Giải An, Ḥa thượng Thích Trí Châu ... ở các tỉnh Miền
ngoài vào để cùng Ngài hoằng dương Phật Pháp tại nơi đây. Năm 1964, khi GHPGVNTN ra đời Ngài được cử làm Chánh Đại Diện GHPHVNTN
quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Ḥa, và được lưu nhiệm cho đến ngày Ngài Viên
tịch. Năm 1970, Ngài được Ḥa thượng Thích Trí Thủ mời thỉnh giảng lớp Chuyên
Khoa Phật học tại Phật học Viện Trung Phần Hải Đức-Nha Trang. Năm 1972, Ngài mở Giới đàn Sa Di, Bồ Tát tại gia và Thập Thiện, dưới sự
chứng minh kiêm Ḥa thượng Đường đầu là thượng Trí hạ Thủ.
Năm 1973, Đại Giới Đàn Phước Huệ tại Chùa Hải Đức-Nha Trang, Ngài được
cung thỉnh làm Đệ Tam Tôn Chứng. Về sau, tuy tuổi già sức yếu nhưng hằng ngày Ngài vẫn hướng dẫn cho Tăng
Chúng hành tŕ trong các thời khóa lễ. Ngoài ra, mỗi ngày Ngài c̣n lễ sám
Hồng Danh Vạn Phật và luôn luôn khi đi đứng, lúc nằm ngồi Ngài đều niệm
Phật, tràng hạt không rời tay. Sứ mệnh thành, hạnh nguyện măn. Trước khi từ biệt cơi trần để vào cơi Niết
Bàn Tịch Tịnh, Ngài gọi đồ chúng lại dạy lời cuối cùng được thể hiện bằng
bài kệ như sau:
«Hơn, thua, phải, trái biết bao là!
Xét nét tu hành giữ lấy ta,
Tâm để rỗng không, thường nhẫn nhục,
Muôn phiền năo chướng cũng tiêu ma».
Sau đó, Ngài an nhiên thâu thần thị tịch. Thượng tọa Tuệ Sĩ cảm khích ân
đức của Ngài mà viết câu đối kính điếu đầy thiền vị như sau:
仰 之 高 奚 生 歟 滅 歟 彷 彿 空 堂 瘦 鶴
-«Ngưỡng chi cao hề sanh dư diệt dư phưởng phất không đường sấu hạc»;
垂 之 切 矣 戒 也 訓 也 俳 佪 暮 影 遺 音
-«Thùy chi thiết hỷ giới dă huấn dă bồi hồi mộ ảnh di âm».
Tạm dịch:
Trông lên cao hề! Sống ư, chết ư? Thấp thoáng hạc gầy nơi cửa Phật.
Nh́n lại gần hề! Răn chăng, dạy chăng? Ngậm ngùi giọng cũ lúc hoàng hôn.
Ngài an nhiên thị tịch vào lúc 12 giờ, ngày 24 tháng 5 năm Bính Th́n
(1976), hưởng thọ 68 tuổi.
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TAM THẾ, LINH SƠN ĐƯỜNG THƯỢNG TRÚ TR̀,
HÚY THƯỢNG TÂM HẠ THANH HIỆU TỊCH TRÀNG H̉A THƯỢNG GIÁC LINH THÙY TỪ NHĂ
GIÁM.
|