www.todinhlinhson.com

mục lục

 

trang bìa

  • Thích Viên Giác & Thích Thiện Hiền
  • Linh Sơn Hành Khúc

  • Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

  • thơ
  • Thiền Sư Minh Tịnh
  • chân dung

  • Hòa Thượng Thích Tịch Tràng
  • chân dung
    tiểu sử
    một vài hình ảnh
  • Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ
  • Bài Minh
    câu đối
  • Giác Tâm
  • Nhớ Thầy
  • Thích Thiện Hiền
  • Hồi Ký về HT Thích Đức Nhuận
    Tâm Tình Linh Sơn
    Cúng Thầy
    Ngủ Quên
    Vay Trả Tứ Đại
  • Hoài Thu Tử Lê Văn Long
  • Linh Sơn Ngày Về
    Linh Sơn 12 tháng nhớ
  • Nguyên Kim
  • Nén Hương Tưởng Niệm
  • Tâm Nhiên
  • Vạn Ninh - Linh Sơn
    Mái chùa xưa
    Thế Tôn Ca
    Nụ cười Linh Sơn
    Linh Sơn nghìn năm
    vườn mây trắng
  • Lê Mạnh Thát
  • Tư Liệu Mới về Bồ Tát Thích Quảng Đức
    tựa
    chương I
    chương II
    chương III
    chương IV (kết)
     


    MỘT SỐ TƯ LIỆU MỚI VỀ BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
    TRÍ SIÊU - LÊ MẠNH THÁT
     

    Chương III

    Văn kiện liên hệ đến Tổ đình Linh Sơn

    Chương này tập trung 12 văn kiện liên hệ chủ yếu đến tổ đình Linh Sơn và thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang về các sinh hoạt Phật sự ruộng đất và xây dựng của tổ đình. Thiền sư Thiên Quang sinh giờ Dần ngày 28 tháng 12 năm Nhâm Tuất (1863) và mất vào giờ Dần ngày 26 tháng 12 năm Mậu Dần (1939), thế danh là Phạm Huyền Túc, tại làng Sơn Hoà tỉnh Phú Yên. Cha là cụ Phạm Dĩ mẹ là bà Nguyễn Thị Điền. Lớn lên, thiền sư đến xuất gia với tổ Ấn Chánh Tổ Tông Huệ Minh, nên sau đó được đặt tên là Chơn Hương Thiên Quang. Ta hiện chưa truy ra pháp tự của thiền sư. Những người đồng hàng và đệ tử của thiền sư Ấn Chánh đều bắt đầu bằng chữ đạo như Chơn Chánh Đạo Tâm Pháp Tạng, người đã chép bản Hứa sử truyện vãn vào năm Thành Thái Ất Mùi (1895), Chơn Tâm Đạo Tánh Pháp Thân, người đã khai sơn chùa Phước Huệ tại Huế và chú giải Tam bảo biện hoặc luận v.v..
    Thiền sư Chơn Quang lớn lên thì đất nước đang bị nạn ngoại xâm do giặc Pháp gây ra. Chính tại quê hương Phú Yên của mình, những người Phật tử yêu nước đã anh dũng đứng lên dưới sự lãnh đạo của các thiền sư Võ Trứ và Trần Cao Vân, quyết liệt chống trả với kẻ thù vào những năm 1893. Đây hẳn là thời điểm thiền sư Thiên Quang đã vào vùng Vạn Ninh lánh nạn để tránh sự trả thù đê hèn của giặc, sau khi cuộc khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân thất bại. Dù với thời điểm nào, ta cũng có thể chắc chắn là thiền sư vào trú trì chùa Linh Sơn vào khoảng thời gian ấy.
    Lý do suy nghĩ như vậy xuất phát từ chỗ tổ Thiên Quang có người đệ tử là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm, mà ta biết đã khai sơn chùa Long Sơn vào năm Thành Thái thứ 10 (1899) và trước khi khai sơn, đã đến ở chùa làng Phú Cang. Việc khai sơn chùa ấy vào năm đó chứng tỏ thiền sư phải xuất gia cũng trên dưới 10 năm, một khoảng thời gian cần thiết để một người xuất gia có thể rời thầy mình, để đi hành hoá ở một trú xứ mới. Cần nhớ rằng khi cuộc khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân xảy ra, thiền sư Thiên Quang mới 30 tuổi, tức về mặt đời sống đạo vẫn còn trẻ lắm. Dẫu thế, tuy ta không biết thiền sư Hoằng Thâm xuất gia vào lúc nào, nhưng điều chắc chắn là phải xuất gia vào khoảng 1893, nếu không là trước đó.
    Chỉ chừng ấy thôi thì những văn kiện này cũng đáng để chúng ta quan tâm, vì chúng có thể giúp hiểu thêm một giai đoạn Phật giáo thông qua sinh hoạt của một ngôi chùa. Đặc biệt khi giai đoạn ấy là một giai đoạn đất nước đầy những biến cố, lớp lớp người yêu nước đã liên tục đứng lên để đấu tranh cho nền độc lập của tổ quốc.
    Tuy nhiên, cũng thông qua các văn kiện ấy, chúng ta không những biết về các hoạt động của tổ Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang, mà còn biết thêm về các công việc của tổ Như Đạt Hoằng Thâm và bồ tát Quảng Đức. Chẳng hạn, trong văn kiện ngày mồng mười tháng 4 năm Ất Tỵ (1905) ta biết vào thời điểm ấy tổ Hoằng Thâm đang làm “thủ tòa chùa Long Sơn tỉnh Khánh Hoà”. Rồi trong văn kiện ngày mồng 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917), tổ lại là “giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn”. Cũng trong văn kiện này, vào thời điểm 1917 bồ tát Quảng Đức đang làm “tri sự chùa cổ tích Long Sơn”. Chính vì những chi tiết này mà các văn kiện ở đây tỏ ra có một sức hấp dẫn lạ thường đối với chúng ta.

    17. Văn kiện ngày 21 tháng 11 năm Thành Thái 14 (1902)

    Đây là một bản sao trên giấy bổi láng có chứng thực của Đại diện hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958 và của vị trú trì chùa Linh Sơn là thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng vào ngày 13 tháng 5 năm 1958 cùng với sự phê duyệt của Ban trị sự Phật giáo tỉnh hội Khánh Hoà ngày 30 tháng 9 năm 1958. Gồm 3 tờ, khổ 13x21, đóng chung cùng với các văn kiện có sự chứng thực của xã Vạn Lương cùng ngày. Văn kiện viết bằng chữ Nho, nhưng trang b của tờ thứ nhất có một đoạn phê tiếng Pháp viết bằng bút sắt mực xanh.

    Các vị chức dịch binh dân xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hoà xin lập tờ bán đất ruộng sự việc như sau:
    Bổn xã có một chủ tuyệt tự để lại một thửa ruộng nguyên là một mẫu 6 sào đo theo chiều rộng cộng lại thành 6 mẫu, toạ lạc tại địa phận của bổn xã, tục gọi là xứ Cây Cau, đông giáp ruộng chùa tây giáp ruộng công, nam giáp ruộng công, bắc giáp ruộng công, đông tây bốn phía đúng như trong sổ bộ. Nay bổn xã lập tờ bán đứt cho người thôn Hội Khánh là Trần Thị Từ pháp danh Như Chí, đúng giá một ngàn bốn trăm quan tiền. Việc giao nhận tiền xong, bèn lập văn khế giao cho chủ mua chấp chiểu, đem cúng cho hoà thượng bổn sư chùa Linh Sơn xã Hiền Lương của chúng tôi hiệu Thiên Quang vâng giữ để đáp nhu phí hương đèn cho tam bảo và cha mẹ của chủ mua, đời đời nối nhau cho đến mãi mãi, để cúng để kỵ, để làm rộng ruộng phước. Đến như thuế lệ thì chiếu theo bổn xã mà đăng nạp. Ngày sau người nào trong xã không được nói trái, lẽ gì thì phải chịu lấy tội. Đây là tờ bán đứt ruộng.
    Ngày 21 tháng 11 năm Thành Thái thứ 14 (1902)
    Lý trưởng Nguyễn Văn Chợ nhận ký
    Cựu lý trưởng Trần Văn Thiêm thủ ký
    Lão nhiêu Trần Văn Đạt điểm chỉ
    Cựu lý trưởng Thành thủ ký
    Cựu lý trưởng Xuân thủ ký
    Hương hào Đức thủ ký
    Cựu lý trưởng Lộc điểm chỉ
    Cựu lý trưởng Hoàn thủ ký
    Cựu lý trưởng Chánh thủ ký
    Tri yển Tự
    Trùm yển Thuần thủ ký
    Tráng Bính thủ ký
    Tráng Duyên điểm chỉ
    Tráng Nở điểm chỉ
    Cựu hương trưởng Bá điểm chỉ
    Tráng Bối thủ ký
    Tráng Lung thủ ký
    Tráng Diệu điểm chỉ
    Tráng Thiệu điểm chỉ
    Tráng Tình thủ ký
    Cựu phó lý Xung thủ ký
    Viết lời Nguyễn Thống tự ký
    No 33. Vente en une rôle le 20 Décembre 1902 d’une rizière faites par les autorités communales du village de Hiền Lương, phủ de Ninh Hòa, à la nommée Trần Thị Từ, bonzesse de la pagode dite Linh sơn tự, qui donne comme don à la dite pagode, moyennant cent soixante dix huit piastres en ligatures, mille quatre cents ligatures. 3% sur 178$00. Recu dix piastres soixante huit cents.(3% sur 178$00 = 5$34 plus amende)
    P.o. L’Administrateur adjoint.
    Signature illisible et cachet

    18. Văn kiện ngày 12 tháng 7 năm Thành Thái thứ 15 (1903)

    Khổ 14 x 21, gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện khác có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958. Đây là một bản sao do thượng tọa trú trì chùa Linh Sơn là thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3 tháng 6 năm 1958 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm 1958. Nội dung viết bằng chữ nho mực Tàu, đề cập đến việc cúng ruộng cho chùa Linh Sơn của bà Trần Thị Từ.

    Trần Thị Từ pháp danh Như Chí và con ruột Nguyễn Tấn Khoa thôn Hội Khánh tổng Phước Tường ngoại huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa xin lập tờ cúng ruộng sự việc như sau:
    Nguyên trước song thân thị sinh hạ chỉ được hai người. Anh ruột thị trước đã qua đời. Tiếp đó, cha mẹ thị cũng đã đi chơi cõi tiên. Chỉ còn mình thị. Hễ là con gái sinh ra là nhắm nhà khác, cô quả một thân, sợ trăm năm sau không người nối thờ. Lòng mong báo đáp, còn thẹn phận gái thiếu sót nhiều. Nghĩ kế muốn lâu dài, phải nhắm tới cửa thiền mà gởi dấu.
    Nay thị tình nguyện xuất tiền của, mua đứt chủ ruộng một thửa tọa lạc tại xứ Cầu Cau xã Hiền Lương, giá tiền một ngàn bốn trăm quan, đông tây bốn bên đúng như trong khế. Nay đem dâng cúng cho Hòa thượng bổn sư Thiên Quang chùa Linh Sơn vâng giữ để làm ruộng chùa và trả phí hương hoả cho cha mẹ thị, để cúng để kỵ, đời đời nối nhau, ngỏ hầu lâu dài cùng trời đất, trải bể dâu mà không nát. Trước đi sau tiếp, theo thứ lớp mà mãi truyền. Được như vậy thì song thân thị thỏa niềm an ủi ở dưới đất, mà mẹ con thị cũng nhận ơn tế độ tại bến mê.
    Do thế, lập tờ đơn này cùng bản khế gốc, vái giao cho bổn sư chấp chiểu, lưu làm khoán sắt ngàn muôn năm của bổn chùa, ngày sau con cháu thị không được nói trái lẽ gì. Nay dâng tờ cúng ruộng, do ruộng một thửa lớn nhỏ hai mươi bốn hạng. Nay do.
    Ngày 12 tháng 7 năm Thành Thái thứ 15 (1903)
    Trần Thị Từ pháp danh Như Chí điểm chỉ
    Con ruột Nguyễn Tấn Khoa thủ ký
    Người làm đơn: Phạm Ngũ Giáo tự ký

    19. Văn kiện ngày 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)

    Khổ 16 x 26, gồm 6 tờ giấy bổi đóng bằng chỉ giấy bổi với hai bìa trước sau màu gạch. Nội dung kêu gọi quyên góp để đúc lại tượng Phật cho tổ đình Linh Sơn do thiền sư Chơn Hương Thiên Quang thực hiện.
    Yết ma hòa thượng chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Thiên Quang xin lập tờ thiện khuyến:
    Hưởng ơn lành của Phật tổ thì bước nền cũ ở gò cao, qua chỗ yên của người xưa thì cỡi lấy nhà trên núi. Đã trải mười năm ngóng trông, được lấy nền hư tại Hiền Lương. Thấy nền đó gặp buổi tranh giành, nhân lúc gần trưa, trời hè khí hun, về nam gió tạt. Than ôi, rường cột điện Phật, thảy giao cho một mồi lửa. Cơ đồ thê thảm, hình tượng cũng trở thành rụi tàn.
    Bần tăng há ngồi nhìn, há yên lòng ư? Do thế, đã nhọc mình đau óc, hết sức chạy lui chạy tới, dựng lấy một am chùa, vẽ mấy tượng Phật. Thế mà đã một kỷ, trước mây che khỏi gió mưa. Thế mà đã mười năm, nhờ đó mà công phu nổi lại.
    Nay một gian chùa am sắp đổ, mỗi nghĩ một mình khó kham. Mấy tượng Phật chưa đúc, thâm tâm nguyện lớn sao đáp, nên lòng mãi lo âu, chí mãi trông ngóng. Cho nên, trình bày cầu xin bố thí, khuyên lành phương xa. Kính mong thạc đức hiền nhân ban ơn, giúp cho cơ đồ sắp đổ trở lại như xưa.
    Kính nghĩ người nhân quân tử ban ơn, xót những hình tượng đã hư nát, phải phục hồi lại cho rực rỡ sáng tươi. Như thế thì dòng thơm mãi chảy, phước lớn vô cùng. Trên bản ghi tên cùng với tháng năm bất tuyệt. Trong bản lưu chiếu cũng đời đời chẳng thể quên mất. Đại nguyện lòng này đâu phải trộm thôi, há dám dong dài. Vậy thôi, xin trước bản xem xét.
    Ngày 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)
    Yết Ma hoà thượng hiệu Thiên Quang ấn ký.
    Lý trưởng xã Hiền Lương Nguyễn Thông nhận thực ký.
    Thủ toạ chùa Long Sơn tỉnh Phú Yên hiệu Thiên Đạo phụng cúng tiền 2 đồng
    Thị tăng chùa Khánh Long hiệu Minh Khánh phụng cúng tiền 3 đồng
    Đoàn Thị Tố phụng cúng tiền 1 đồng.
    Thủ toạ chùa Long Sơn tỉnh Khánh Hoà hiệu Hoằng Thâm phụng cúng 3 đồng.
    Nam xương Trần Thị Quyển phụng cúng tiền 1 đồng
    Phạm Văn Liên thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
    Châu Nam Xương thôn Đông Hải vui cúng tiền 1 đồng chẳn hiện đã giao
    Châu Thành Huệ vui cúng tiền 5 hào hiện đã giao
    Châu Tự Phụng vui cúng tiền 5 hào hiện đã giao
    Châu Lệ Kim vui cúng tiền 5 hào hịen đã giao
    Thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
    Phước Điền cúng tiền 3 quan
    Nguyễn Thi Lũ cúng tiền 1 quan
    Võ Văn Thống Trần Văn Viên cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Thị Thức cúng tiền 1 quan
    Lê Thị Cảnh cúng tiền 5 đồng
    Võ Văn Mân thôn Thang Đông tổng Xương Hà huyện Vĩnh Xương vui cúng tiền 5 hào
    Trần Văn Thắng phụng cúng tiền 2 quan
    Nguyễn Thị Cẩn phụng cúng tiền 1 quan
    Đặng Văn Xung phụng cúng tiền 1 quan
    Đăng Tiêu Văn Đá phụng cúng tiền 5 xu
    Nguyễn Văn Mao phụng cúng tiền 1 quan
    Lữ Thừa Chân phụng cúng 1 đồng
    Trần Thị Chi cúng 4 hào
    Nguyễn Văn Chu, Lê Thị Quyên cúng tiền 1 đồng
    Thông sự Quan Dụ Phước vui cúng 5 hào
    Nguyễn Văn nên thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
    Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
    Trần Văn Tuy thôn Đông Hải phụng cúng tiền 2 quan
    Chùa Hiền Lương chùa Khánh Long phụng cúng
    Lê Văn Tung thôn Phú Thọ phụng cúng chùa Khánh Hoà tiền 1 đồng Tung tự ký
    Nguyễn Thị Tuyệt thôn Phú Thọ cúng tiền 1 hào
    Lê Thị Thử thôn Phú Thọ cúng tiền 6 hào
    Lê Văn Dài thôn Phú Thọ cúng tiền 1 đồng Dài tự ký
    Lê Quang Trạch thôn Như Đàm cúng tiền 5 hào
    Nguyễn Văn Phụng thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
    Nguyễn Du thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
    Nguyên chánh tổng Nguyễn Phú Xuân thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
    Nguyên tri hương Lê Thoả thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào hiện đã giao
    Cựu xã phó Đặng Văn Phỉ thôn Bạch Hà cúng tiền 3 quan
    Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
    Nguyên thủ bổn Đổ Văn Xa thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
    Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
    Lương Khai Hoà thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
    Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
    Nguyên Nguyễn Văn Hạnh thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào hiện đã giao
    Chánh tổng Lê Thiện tổng Hà Ngoại phụng cúng tiền 5 hào tự ký

    20. Văn kiện ngày 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917).

    Khổ 16 x 30, gồm 8 tờ đóng lại bằng chỉ giấy bổi 2 bìa trước sau màu gạch. Nội dung viết bằng chữ Nho mực tàu, đề cập đến việc quyên tiền sửa chùa Linh Sơn. Giữa các tờ đều có đóng dấu giáp lai của Xã Hiền Lương.

    Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà hiệu Thiên Quang cùng với hộ chủ Trần Như Trí cúi trình việc khuyên phát tâm trùng tu sau:
    Hưởng hồng ân Phật tổ thì đền chùa phải nguy nga, trải dựng xây mấy phen thì bao lần trao đổi chịu nhiều năm mưa gió thì nay xem nó thấy nát hư. Há yên lòng mà ngồi xem, chẳng mù mắt mà tìm thấy. Do thế, lòng mãi lo âu, chí mãi nhắm tới. Mỗi muốn trùng tu, mà nghĩ một cây không thể chống được nhà lớn. Khó kham một mình nên mong chắp lớp ngõ hầu dệt nên áo cừu. Đã vậy, phải nhọc lòng vắt óc, đâu từ hết sức bôn ba, vì để rộng cầu bố thí, khuyên lành phương xa.
    Kính nghĩ đại đức ban ơn, giúp cho chùa đền sắp nổi. Kính mong người nhân ra huệ, dựng lại rường cột cho vút cao. Để có thể ở, để có thể trụ, mà thấy được nó rực rỡ lại và tươi sáng thêm thì ngõ hầu bỏ cũ dựng mới, cùng vung tên thơm vào nơi bất hủ, làm sáng đời trước, để ơn lớp sau, cùng gội phước lớn đến vô cùng. Đó cúng là ý của người lành giống với bần nạp. Cho nên, dám nhắm tới quý vị mong được lượng cao. Nay vâng có lời khuyến.
    Ngày 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917)
    Tăng là hoà thượng Thiên Quang cúi trình ký
    Bổn xã đồng ký ( có đóng dấu xã Hiền Lương)
    Tăng bổn chùa cúng tiền 50 đồng (do nguyên cai Cung xã Vinh Huềø cúng bổn sư để lại sau xây bảo tháp, vì thiếu, dùng tiền này vá vào, việc xong, nay do đó)
    Bổn xã hộ chủ Trần Văn Chu pháp danh Như Trí thủ ký phụng cúng tiền 50 đồng
    Nguyên thông ngôn Thương chánh Nguyễn Phổ vái cúng tiền 4 hào hiện đã giao
    Chùa Trùng Khánh hiệu Chơn Niệm hoà thượng hộ niệm phụng cúng tiền 5 đồng, việc rồi vâng nhận ký rõ
    Yết ma hoà thượng chùa Phước Điền chùa Như Pháp phụng cúng tiền 2 đồng tự ký
    Trú trì chùa Long Thạnh hiệu Hoằng Ứng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
    Trương Thị Thọ phụng cúng 3 quan tiền ký hiện đã giao
    Mai Văn Đoài thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
    Vợ chồng phó lý trưởng Nguyễn Tham xã Phú Gia tổng Phước Thiện phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
    Bần tăng chùa Kim Quy hiệu Tứ Đức cúng tiền 1 đồng
    Thẩm Hương Hiệu và con ruột Thẩm Vinh, Thẩm Thơ phụng cúng 3 quan hiện đã giao
    Lê Công Dụng xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 quan hiện đã giao
    Tri hương Phan Thuỵ xã Phú Gia cúng tiền 4 hào
    Thủ sắc Nguyễn Tập xã Phú Gia cúng tiền 3 quan hiện đã giao
    Cựu tri hương Đắc xã Phú Gia phụng cúng 5 hào, hiện đã giao 5 hào ký
    Hương trưởng Lê Muộn xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
    Phạm Văn Trực xã Phước Thủy phụng cúng tiền 3 quan tự ký
    Lý trưởng Phạm Ngọc Điển phụng cúng tiền 1 đồng tự ký
    Sương phụ Bùi Thị Thoả xã Hiền Lương phụng cúng tiền 30 quan ký
    Giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn hiệu Hoằng Thâm phụng cúng cây gỗ
    Đinh Chơn Hậu cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Thị Hoa pháp danh Thị Liên cúng tiền 20 quan, lúa 30 đấu
    Giám tự chùa cổ tích Long Sơn Nguyễn Vô Vi phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
    Tri sự chùa cổ tích Long Sơn hiệu Quảng Đức phụng cúng tiền 2 hào
    Tục nhân chùa Báûo Ân phụng cúng tiêu đen 10 đấu
    Hương chủ Hồ Văn Sồi xã Xuân tự cúng tiền 15 quan
    Võ Thị Cầm xã Mỹ Đồng cúng tiền 30 quan
    Đội trưởng Hoàng xã Long Hòa phụng cúng tiền 2 đồng
    Đồng Hoài Ứng xã Vinh Huề cúng nếp 1 ang
    Hoàng Văn Giao xã Vinh Huề ưng cúng tiền 1 quan 5 hào
    Phạm Như Diệu phụng cúng tiền 5 đồng
    Trú trì tăng chùa Phước Long Quan Đông hiệu Giác Khánh phụng cúng tiền 1 đồng
    Hồ Thị Lưới xã Quan Đông phụng cúng tiền 3 quan
    Đệ tử Hồ Thị Đổ pháp danh Thị Tiến bổn đạo chùa Long Sơn phụng cúng tiền 3 quan
    Lữ Thị Giao pháp danh Thị Sơ phụng cúng tiền 3 quan
    Phan Thị Sao phụng cúng tiền 20 quan
    Cai tri Chương ngụ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
    Thủ bộ Ngô Tương xã Phú Cang cúng tiền 1 quan 5 hào hiện đã giao
    Phụ nhân Phạm Thị Chạy thôn Hải Triều phụng cúng 3 quan, con ruột tự ký
    Trần Văn Nao thôn Hải Triều phụng cúng tiền 1 quan
    Xã Quảng Hội phụng cúng tiền 1 quan, Võ Văn Xuân thủ ký
    Cựu thủ sắc Phan Văn Thái xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 xu
    Bát phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Tương phụng cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
    Cựu lý trưởng Vị xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
    Mười Bông ngụ xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
    Bá hộ Lê Đức thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
    Phạm Thị Nghĩa xã Vinh Huề phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
    Chánh bát phẩm Ngô Quang xã Trung Dõng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
    Cựu lý trưởng Nguyễn Khải thôn Phú Hội phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
    Huỳnh Trước thôn Phú Thọ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
    Lê Văn Thơ thôn Sơn Định phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
    Phan Thị Sanh thôn Sơn Định phụng cúng tiền 3 quan hiện giao
    Vợ chồng nguyên dịch thừa Nguyễn Thuận xã Tân Phước phụng cúng tiền 6 quan hiện giao ký
    Nam mô A Di Đà Phật, bần tăng Vạn Minh chùa Giác Hoa vái dâng tiền 6 quan ký
    Nguyễn Văn Niên xã Thạch Thành phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
    Vợ chồng cựu trùm trưởng Nguyễn Văn Kỳ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao.
    Vợ chồng binh Nguyễn Văn Nam xóm Phú Hòa thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao ký

    21. Văn kiện ngày 4 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917)

    Khổ 13.5 x 21. Chỉ là một bản sao trên một tờ giấy bổi láng, đóng chung vào một tập với 6 văn kiện khác. Bản sao do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng lúc ấy trú trì chùa Linh Sơn chép vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3 tháng 6 năm 1958 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa vào ngày 30 tháng 9 năm 1958, tất cả đều có đóng dấu.

    Vợ chồng lão Trần Văn Cho xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa nay lập tờ phụng cúng ruộng lúa, việc như sau:
    Vợ chồng lão tạo mãi còn có điền sản, cũng hưởng được ơn tôn vinh trông cậy phù trì. Nay thiết nghĩ vợ chồng lão thành tâm Phật pháp, may được an khang, không có vật gì để lại ngàn năm, nhằm đáp ơn hương hỏa. Lão đồng ý trích lấy ruộng lúa hai nơi (ruộng Bàu Gia 4 sào cùng ruộng trong Đồng Bé 3 sào) dâng cúng vào chùa Linh Sơn, hòa thượng bảo hiệu Thiên Quang nhận canh vĩnh viễn, đợi cho vợ chồng lão tịch cốc theo tiên, xin ghi bài vị. Nếu sau này đám con trái lời thì chịu tội. Đây là tờ dâng cúng (cùng ruộng Bàu Gia, ruộng lớn nhỏ sáu khoảnh, lại ruộng Đồng Bé hai khoảnh)
    Ngày 4 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917)
    Chứng kiến: Lý trưởng Hồ Văn Nghị nhận ký
    Lão Trần Văn Cho điểm chỉ
    Vợ Ngô Thị Xung điểm chỉ
    Viết thế tờ đơn: Cao Xuân Sanh tự ký


    22. Văn kiện ngày 24 tháng 12 năm Khải Định thứ 2 ( 1917).

    Khổ 16 x 29 gồm 3 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Mỗi tờ 2 trang a và b. Trang 1a có đề chữ Hán văn văn bằng. Trang 2a viết nội dung văn kiện đề cập việc xin trùng tu chùa. Trang 2b có đóng dấu Ninh Hòa phủ ấn và lời phê của tri phủ Ninh Hòa có bốn dấu triện vuông đề chữ Ninh Hòa. Giữa trang 2b và 3a có đóng giáp lai dấu triện vuông Ninh Hòa và dấu xã Hiền Lương.

    Tăng là hòa thượng Phạm Thiên Quang chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa khấu đầu xin trình việc trùng tu chùa Phật như sau:
    Tăng từ lâu đã đến ở chùa Linh Sơn (tại địa phận xã Hiền Lương) quy y. Nhân chùa nầy xây dựng đã lâu, nay đã hư nát, không còn chịu nỗi gió mưa. Tăng thấy vậy đau lòng, bèn dám cúi xin quan phủ đường đại nhân xét thương ra văn phê cho làm bằng, giúp tăng chúng được xây dựng lại ngôi Phật đường, hầu khỏi phải nỗi khổ hương tàn khói lạnh. Muôn lần trông nhờ. Nay khấu đầu trình.
    Ngày 24 tháng 12 năm Khải Định thứ 2 (1917)
    Hòa thượng Phạm Thiên Quang thủ ký
    Đệ tử Phạm Hoằng Chất vái ký
    Bổn xã đồng vái ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
    Lý trưởng Nguyễn Xung nhận ký (có dấu xã Hiền Lương)
    (Lời phê của tri phủ):
    Xuất của ra làm thì được, nếu mượn vay riêng thì trị tội nặng, đừng trách.

    23. Văn kiện ngày 20 tháng giêng năm Khải Định thứ 5 (1920)

    Khổ 19 x 24. Gồm 8 tờ giấy bổi trắng đóng lại bằng chỉ giấy bổi với 2 bìa màu gạch trước sau. Mỗi tờ 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến trang 8a đều có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương, dù có những trang không viết chữ nào như 2 tờ 7 và 8. Đây là một quyển sổ quyên tiền để đúc tượng Tam thế cho tổ đình Linh Sơn do tổ Thiên Quang thực hiện.

    Thiền hòa chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Thiên Quang cúi trình khuyên phát tâm trùng tu việc Phật như sau:
    Ở chùa của thiền hòa, chùa này tương đối mười phần đầy đủ, chỉ trên điện báu vàng chưa có Tam thế từ tôn mấy tượng thánh ông còn thiếu. Thâm tâm đại nguyện là muốn làm sao để đáp đền trong khám ngọc vẫn còn thiếu diệu tướng. Đêm thanh bái sám, trông lên không có chổ làm bằng. Ngày sáng đốt hương nghĩ hào quang mà cảm vắng.
    Nay điêu khắc đúc tô hình tượng Phật thánh, mà bổn chùa đáp ứng rất thiếu. Hễ một tay thì khó mà làm nỗi. Vì thế, lòng mãi lo âu, chí lâu nhắm tới, chỉ mong giải bày tìm lấy bố thí, khuyên lành phương xa. Kính mong người nhân quân tử ban ơn thương hình tượng Phật thánh ấy, muốn thấy rực rỡ lại để tươi sáng thêm. Đó tức là thơm lâu mãi mãi, phước lớn vô cùng. Xin xét lời này thì khôn xiết mong đáp đại nguyện.
    Nay kính
    Ngày 20 tháng giêng năm Khải Định thứ 5 (1920)
    Bổn xã đồng ký (có dấu của xã Hiền Lương)
    Lão nhiêu Trần Văn Chu điểm chỉ, phụng cúng tiền ? đồng
    Lý trưởng Hồ Văn Nghị phụng cúng tiền 1 đồng
    Cựu lý trưởng Nguyễn Công thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
    Cựu thủ sắc Thủ thủ ký, phụng cúng tiền 6 quan
    Cựu lý trưởng Thống thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
    Cựu lý trưởng Nguyễn Hữu Thụy thủ ký phụng cúng tiền 5 hào
    Cựu lý trưởng Nguyễn Thông thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Khắc Minh thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Hữu Đức thủ ký hiện phụng cúng tiền 1 đồng
    Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở chánh cửu phẩm văn giai Trần Chư thủ ký, phụng cúng tiền 10 đồng hiện đưa
    Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở dật sĩ Trần Tường ký, phụng cúng tiền 1 đồng hiện đưa
    Huỳnh Văn Vu thủ ký, Xuân Tự cúng tiền 1 đồng
    Cựu lý trưởng Nguyễn Tấn Hựu thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng hiện có
    Cựu hương trưởng Lê Văn Dần phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
    Cựu thí sanh Nguyễn Trọng Cảnh ký, phụng cúng tiền 1 đồng
    Thủ sắc Nguyễn Hương xã Quảng Tân cúng tiền 1 đồng
    Bùi Thị Thỏa phụng cúng tiền 2 đồng
    Vợ Trần Thị Bền cúng tiền 5 hào
    Nguyễn Văn Vạn phụng cúng tiền 5 hào
    Trần Văn Thâm cúng tiền 2 hào
    Trần Văn Sự (pháp danh) Như Sanh cúng tiền 1 đồng hiện có
    Nguyễn Thị Xuyên cúng tiền 3 quan
    Phạm Thị Nhạc cúng tiền 3 đồng hiện có
    Ngô Văn Lực xã Phước Thủy cúng tiền 3 quan
    Phạm Thị Đài cúng tiền 1 đồng hiện có
    Hương trưởng Nguyễn Thắng xã Phước Thủy cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Thị Sành cúng tiền 1 đồng hiện có
    Vợ Phạm Thị Truyền cúng tiền (cho?) chồng
    Nguyễn Thành Long cúng tiền 1 đồng hiện có
    Huỳnh Chấn (xã) Quảng Tân cúng tiền 4 quan
    Nguyễn Thị Chu cúng tiền 1 đồng hiện có
    Cựu lý trưởng Nguyễn Lâu (xã) Quảng Tân phụng cúng cùng vợ chồng tiền 1 đồng, vợ Thị Đường Thị An, chưa (đưa)
    Nguyễn Thị Mau cúng tiền 1 đồng hiện có
    Vợ chồng giáp trưởng Nguyễn Hậu (xã) Quảng Tân cùng cúng tiền 5 hào chưa (đưa)
    Cô phó tổng cúng tiền 2 đồng hiện có
    Cai tri Trần Tình cúng tiền 8 quan
    Lữ Thị Giao phụng cúng tiền 2 đồng hiện có
    Nguyễn Thị Thuỵ (xã) Quảng Tân cúng 1 quan 5 tiền
    Huỳnh Thị Nhàn cúng tiền 1 đồng hiện có
    Tri hương Đổ Bính cúng tiền 1 đồng
    Nguyễn Văn Giới cúng tiền 1 đồng hiện có
    Cựu đội trưởng Mai Văn Chữ (xã) Hiền Lương cúng tiền 3 quan
    Nguyễn Thị Kiêm cúng tiền 1 quan
    Hồ Văn Quyền (xã) Mỹ Tương cúng tiền 2 quan
    Trần Thị Trạch (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
    Vợ chồng Lê Văn Luận (xã ) Mỹ Đồng cúng tiền 2 quan
    Võ Thị Niệm (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 3 quan
    Phạm Thị Chỉ cúng tiền 1 quan
    Phạm Văn Thông (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
    Tri bộ Nguyễn Hữu Tạo xã Hiền Lương cúng tiền 5 hào thủ ký
    Nguyễn Trung Lương (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 hào
    Trần Văn Lai (xã) Xuân Tự cúng 1 quan 5
    Huỳnh Văn Tử 1 đồng
    Trần Văn Chi cúng tiền 2 hào và vợ Thị Đệ cúng tiền 3 quan
    Lê Văn Mô xã Hiền Lương cúng tiền 3 quan
    Xuân Tự xã phụng cúng tiền 2 đồng
    Phó tổng dụng Hồ Văn Chỉ phụng ký
    Cựu lý trưởng Nguyễn Văn Vị (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 3 quan
    Hồ Văn Ẩn xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng
    Trịnh Văn Đốn thôn Đông Hải phụng cúng tiền 1 đồng

    24. Văn kiện ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1929)

    Khổ 21 x 27. Chỉ là một bản sao trên giấy trắng do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện ngày 15 tháng 5 năm 1958, lúc đang làm trú trì chùa Linh Sơn, rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng thực ngày 3 tháng 6 năm 1958 và Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa khán duyệt ngày 30 tháng 9 năm 1958. Đây là văn kiện bán 6 mẫu ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu cho vợ chồng ông Phan Quang Đức. Vì sau nầy bà vợ của ông Phan Quang Đức là bà Nguyễn Thị Thành đã đem 6 mẫu ruộng đó cúng cho tổ đình Linh Sơn, nên giấy bán ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu vào ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1929) và nhập vào hồ sơ giấy tờ ruộng đất của tổ đình.

    Huỳnh Thị Điểu thôn Tân Đức tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa đã lập tờ bán đứt ruộng tư sự việc như sau:
    Có một thửa ruộng tư toạ lạc tại địa phận xã Phước Thủy (xứ Khu đá, tục gọi là xứ Bàu Vịt), đóng thuế 6 mẫu (hạng 3 ba mẫu, hạng tư ba mẫu), đạc thừa một mẫu, cộng thành bảy mẫu, đông giáp đất mộ, lại giáp miếu, tây giáp ruộng tư của Lê Văn Nam, nay là Lê Mại, nam giáp rừng, lại giáp đường nước và đường trâu bò, bắc giáp cây mây, lại giáp đường nhỏ, bốn phía giáp ranh đúng như trong đơn.
    Nay dân đem ruộng đó, bán đứt cho người ngụ xã Hiền Lương là vợ chồng ông Phan Quang Đức ưng mua ruộng đó với giá tiền phải trả là tám trăm năm mươi đồng chẳn. Ngày lập khế ước giao nhận tiền xong, thì thửa ruộng mua đó, chủ mua canh tác, giữ làm của mình vĩnh viễn. Nếu có người nào tranh chấp cản trở thì tự mình chịu bồi thường. Vì thế, nay viết tờ giấy bán đất.
    Ngày 12 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1928)
    Lý trưởng xã Phước Thủy sở tại là Ngô Lực nhận thực ký, có đóng dấu.
    Huỳnh Thị Điểu điểm chỉ
    Người viết đơn: Nguyễn Quý tự ký

    25. Văn kiện ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 5 (1930).

    Khổ 16 x 29. Gồm 6 tờ giấy bổi trắng, đóng bằng chỉ giấy bổi với một bìa trước màu gạch. Văn kiện viết hoàn toàn chữ Nho, có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương giữa các tờ 2 và 3, 4 và 5. Nội dung quyên tiền xây tháp cho thiền sư Thiên Quang vào năm 1930.

    Đệ tử chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Hoằng Nguyện cùng chúng lục hòa vái trình sự việc xin phát tâm sùng tu bảo tháp như sau:
    Mãng nghe bốn đại đều không, bỏ trí tuệ vô tư của Phật ta thì sáu căn muốn dứt, không Bồ đề thì thiếu sự tu trì đó. Kính nghĩ bổn sư của chúng đệ tử là hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang thượng nhân lúc thiếu thời mộ đạo xuất gia, tham thiền nhập định, giới nhận sa môn, thành chánh quả Phật, trong có đức trí nuôi chứa, ngoài có hạnh đẹp rõ ràng. Cửa mở trí thông, bàn cơ huyền của đạo tối thượng, nhà vào từ bi giảng pháp diệu của dụng vô vi. Không biết trải qua bao bể dâu mới có ngày hôm nay.
    Chúng tôi những nghĩ đời người như sương xuân móc thu, chốc lát thì tan, như cây bờ dây giếng, há được dài lâu, nếu không lo việc từ trước, e lại phải hối về sau. Cho nên, nay bổn sư của chúng đệ tử, tuổi quá sáu mươi, mình đã run rẩy, tuy mang sắc vẻ của tùng bách không sợ gì nương dâu cảnh xế, nhưng một mai bỗng phải viên tịch, cả thế giới còn có hạt cải để dấu bao thì việc nghìn thu nhất định phải có nơi bằng cứ để vùi lấy kiếp trần vào chốn tam muội diệt tận. Chúng đệ tử thảy đều thầy tu nghèo, rất sợ điều đó.
    Thiết nghĩ dựng nhà lớn không phải một cây mà làm được, dệt áo cừu chẳng phải lông của một con cáo mà thành ra, bèn dám tập hợp vái xin, lập làm một tờ quyên góp, nói rõ cùng lý hào sở tại cho họ chứng ký. Rồi riêng đi khắp mười phương, kính trình các thiện nam tín nữ, ánh tuệ duỗi soi, lượng biển rộng mở, cùng trồng ruộng phước, ít nhiều dự vào, để giúp bảo tháp nơi tàng chứa chân thân ngàn ức năm của bổn sư chúng đệ tử, hầu được tháp nền vút cao, cây báu um tốt, hoa điềm lành nở đẹp, đất Hiền lương ánh tươi. Ấy sắc ấy không, ngộ được bồ đề không cây. Bất sanh bất diệt, hiểu rõ gương sáng chẳng đài. Về sau, chúng đệ tử và thiện tín, một là y bát chân truyền, hai là đàn na chứng quả, cùng gội mưa pháp, khí thiêng sông Lệ mãi xuôi, cùng trông mây từ, màu núi non Trì tự tại.
    Có bao nhiêu thiện tín ban ơn, xin đem quê quán tự hiệu, ghi vào sổ quyên, đợi khi việc xây tháp xong xuôi, xin chép vào bảng để truyền bất hủ. Đây là lời kính quyên góp để xây tháp.
    Mồng mười tháng ba năm nay khởi công
    Ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 5 (1930)
    Lý trưởng sở tại Trần Đoan nhận chứng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
    Đệ tử chùa Linh sơn hiệu Hoằng Nguyện vâng vái ký
    Chùa Thiên Bửu (thượng) phụng cúng tiền xây bảo tháp 1 đồng, hòa thượng hiệu Phước Tường ký
    Đệ tử Trần Như Trí và thất trung (vợ) Ngô Như Huệ phụng cúng tiền bảo tháp 50 đồng
    Chánh cửu phẩm Trần Lự thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
    Đệ tử bổn chùa Phùng Như Chi nguyện cúng tiền 10 đồng
    Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Như Lãng nguyện cúng tiền 15 đồng
    Chùa Thiền Lâm phụng cúng tiền xây bảo tháp 5 hào, trú trì đệ tử Nguyễn Hiệu thủ ký
    Đệ tử Nguyễn Như Cảm phụng cúng tiền bảo tháp 40 đồng ký
    Đệ tử Nguyễn Như Đăng phụng cúng tiền bảo tháp 5 đồng ký
    Ngô Thị Vện cúng tiền 2 đồng ký
    Đệ tử Phạm Như Diệu thôn Hội Khánh ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 20 đồng
    Đệ tử Huỳnh Như Thái xã Long Hòa ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10 đồng
    Đệ tử Như Nghi, Như Thật, bào tỷ Nguyễn Thị Cảm đồng ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10 đồng
    Đệ tử Huỳnh Như Năng qui y chùa Linh Sơn phụng cúng tiền 5 đồng chẳn ký
    Đệ tử chùa Linh Sơn Bùi Như Nhàn, thất trung Nguyễn Như Chánh phụng cúng tiền xây tháp 20 đồng ký
    Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Như Sanh phụng cúng tiền 1 đồng ký
    Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Đức pháp danh Như Tài, Lê Thị Việt pháp danh Như Thừa phụng cúng tiền 10 đồng thủ ký
    Chánh bát phẩm Nguyễn Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 10 đồng xây tháp, nay vâng thừa ký
    Đệ tử chùa Linh Sơn pháp danh Nguyễn Như Xuân phụng cúng tiền 2 đồng ký
    Đệ tử Nguyễn Như Hữu phụng cúng tiền bảo tháp 5 đồng ký
    Đệ tử pháp danh Như Hóa Huỳnh Trọng Hối phụng cúng 2 đồng ký

    26. Văn kiện ngày 15 tháng 7 năm Bảo Đại 11 ( 1935)

    Khổ 13.5 x 21. Gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện ruộng đất khác của tổ đình Linh Sơn. Đây chỉ là 1 bản sao do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng sao y bản chánh vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, lúc đang làm trú trì tổ đình Linh Sơn, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 cùng năm. Nội dung đề cập đến việc cúng ruộng của vợ chồng ông bát phẩm Nguyễn Khoa làng Mỹ Đồng ở Vạn Ninh vào năm 1935 cho tổ đình Linh Sơn.

    Vợ chồng bát phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Đồng tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh xin lập tờ đặt ruộng linh sự việc như sau:
    Vợ chồng (lão) nhiêu ân cần sáng tạo ruộng mầu, tuy bảo nhờ đức trạch của tiên tổ mà có ra, nhưng thật sự là nhờ Phật trời giúp ban mà tới được phước vậy. Thiết nghĩ ơn lặng giúp của Tam Bảo chưa chút báo đền. Vì thế, nay tình nguyện đem một thửa ruộng tư mua được này dâng cúng cho hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang và các vị trú trì đến sau được truyền lại nhận quản lý cúng kỵ, đặt làm ruộng linh, truyền nhau đời đời cho được tiện nghi.
    Lão nhiêu phụng đặt bài vị tiên linh (tên họ ngày kỵ liệt ra ở trong bài vị) ở chùa hằng năm hoa quả kỵ chạp, để báo đền ơn trạch vô cùng của tiên linh cho đời sau. Còn bao nhiêu thì để chi dụng việc Phật, có lý hào xã Hiền Lương sở tại nhận ký xác minh đầy đủ.
    Đơn này chép thành 2 bản. (Một bản phụng giao cho chùa và các loại đơn khế cũ mới của ruộng đó. Một bản lão nhiêu giữ làm lưu chiểu) ngày sau con cháu trai gái của lão nhiêu không được nói trái, nếu có lẽ gì thì chịu tội. Nay phụng cúng tờ đơn:
    1. Nguyện cúng ruộng tư, vì để đặt ruộng linh bốn mẫu toạ lạc tại địa phận xã Quảng Tân xứ Khẩu Gia, đông giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa Nguyễn Số, tây giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa, nam giáp ruộng tư của Nguyễn Ứng, bắc giáp đường nước. Ruộng hạng nhất 1 mẫu, hạng nhì 3 mẫu. Đơn khế cũ mới và bản vẽ bảy trương, một bản toà án do Tây ghi lại đóng thành một tập, đều giao cho chùa Linh Sơn nhận giữ chấp chiểu.
    2. Phụng đặt bài vị tiên linh tại chùa, hằng năm kỵ chạp, con cháu đều đến chùa hầu lạy, cầu nhờ ơn Phật cho siêu độ.
    Ngày 15 tháng 7 năm Bảo Đại 11 (1935)
    Bổn xã đồng ký
    Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
    Cửu phẩm Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
    Hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang nhận đặt ruộng linh ký
    Lý trưởng xã Hiền Lương Trần Ứng Long ký
    Bát phẩm Nguyễn Khoa thủ ký
    Vợ Thị Cầm áp chỉ
    Người vâng chép đơn thế: đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự ký


    27. Văn kiện ngày 7 tháng 4 năm Canh Dần (1950)

    Khổ 21 x 27. Chỉ một bản sao trên 2 tờ giấy manh bằng chữ quốc ngữ do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng thực vào ngày mồng 3 tháng 6 cùng năm và kháng duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm đó. Nội dung đề cập đến việc cúng cho tổ đình Linh Sơn sáu mẫu ruộng, mà bà Nguyễn Thị Thành cùng chồng là ông Phan Quang Đức mua lại của bà Huỳnh Thị Điểu trong văn kiện số 8 trên. Khi cho đánh máy lại văn kiện này, chúng tôi vẫn giữ nguyên cách viết chữ quốc ngữ của nó. Những chữ cần phải sửa lại cho đúng cách viết chuẩn ngày nay, chúng tôi để những chữ ấy vào trong ngoặc đơn. Thí dụ, chữ diều thì ngày nay phải viết dìu, chúng tôi để chữ dìu trong ngoặc ( ).

    Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo
    Kính bạch Bổn Sư Đại Đức trú trì chùa Linh Sơn
    Kính bạch hiện tiền đại chúng
    Đệ tử là Nguyễn Thị Thành thọ ưu bà di giới, pháp danh Như Trung, bổn đạo chùa Linh Sơn.
    Nhờ ơn Thập phương thường trú Tam Bảo, hiện tiền Bổn sư trú trì và đại chúng từ bi chứng minh có đệ tử những lời nguyện vọng như sau:
    Thân người khó đặng, pháp Phật khó nghe, đệ tử trước đã sẵn gieo căn lành phước đức chút ít nay mới được làm người mà lại nhờ thầy truyền thọ cho pháp Tam quy, Ngũ giới và thiện trí thức diều (dìu) dẫn cho theo con đường sáng suốt của Phật là nơi an nhàn giải thoát, thiệt là hạnh phúc biết bao nhiêu. Đệ tử hằng đội tứ ân không biết lấy gì đền đáp trong muôn một, trộm nghĩ rằng:
    Chùa là nơi phụng sự Tam bảo, là nơi tiếp tăng độ chúng, là cơ quan hoằng hoá đạo đức, nếu của thường trú không có được cho dồi dào thì sự duy trì khó được trang nghiêm bền bỉ mà phần đạo đức khó bề phát triển cho phổ thông. Ngôi Tam Bảo không bền bỉ, đạo đức không phổ thông thì chúng sanh mãi mãi về sau trong đêm trường tăm tối biết làm sao thấy đặng ánh quang minh của Phật, biết do đâu mà tìm nơi giải thoát, nên đệ tử trước kia cùng chồng là Phan Quang Đức có tạo được một sở ruộng tục danh là Bầu Vịt rộng được sáu mẫu, thuộc về địa phận làng Phước Thủy, nay đồng lòng với con trai là Phan Vu Huợt nguyện đem cúng vào chùa Linh Sơn làm ruộng Tam Bảo đời đời thường trụ.
    Sau đây nguyện nhờ ơn thầy và đại chúng từ bi cho đệ tử qui bài vị quyến thuộc quá vãng của đệ tử trí đời đời tại chùa Linh Sơn để nhờ ơn chú nguyện của Tam Bảo trong những ngày huý kỵ của tiên linh có tên trong ấy.
    Phật pháp còn thì chùa còn, chùa còn thì ruộng đất còn, ruộng đất còn thì tăng chúng còn có chỗ tu học; Tăng chúng có tu học thì còn có người ra đảm đương hoằng pháp lợi sanh.
    Đệ tử nguyện cùng pháp giới hữu tình nhờ duyên lành nầy ai nấy đều đặng vãng sanh Tây phương, đồng thành chánh giác.
    Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo tát ( tác) đại chứng minh.
    Linh Sơn tự Đại đức trú trì chứng minh
    Tân Đức ngày mồng 7 tháng 4 năm Canh Dần (1950)
    Đệ tử thọ Ưu bà di giới Nguyễn Thị Thành pháp danh Như Trung kính bạch
    Con trai là Phan Vu Huợt tuỳ hỷ tự ký
    Tân Đức xã lý trưởng nhận thiệt ký
    Lý trưởng vắng mặt, hương bộ được quyền chứng. Tên ký không rõ, đóng dấu
    Lý trưởng Hiền Lương nhận thiệt cho bà Nguyễn Thị Thành hảo tâm phụng cúng cấp sở ruộng cho chùa Linh Sơn duỷ (dĩ) hưởng duỷ (dĩ) tự chư linh
    Ký tên không rõ, đóng dấu

    (đọc tiếp chương IV)