NÉN HƯƠNG TƯỞNG NIỆM
Trong gần năm niên khóa 1970-1975 tôi làm Giám học và dạy học tại Trường
Bồ Đề Vạn Ninh, thỉnh thoảng rảnh rỗi tôi vào chùa Linh Sơn thăm qúi thầy
và các chú học ở trường. Cảnh trí chùa rất thanh tịnh, chùa nh́n ra con
sông có chiếc cầu xe lửa vững chắc bắc nhịp nối hai bờ. Nước sông trôi êm
đềm giữa đôi bờ cát bên lỡ, bên bồi, bên bồi luôn ở phía trước mặt cổng
Tam quan, có lùm bụi lưa thưa che chắn một màu xanh dịu mát cạnh hàng cây
rũ bóng vào mùa hè và xào xạc trong mùa gió bấc. Tôi không phải nhà thơ
cũng không phải người họa sĩ nhưng cũng vẽ lên được bức tranh của ḷng
ḿnh với lời thơ man mác cạnh chiếc cầu buồn thiu trong chiến tranh thiếu
hẳn tiếng ŕ rầm của những đoàn tàu qua lại nhưng sớm chiều luôn ngân vọng
tiếng chuông chùa Linh Sơn dịu vợi thiết tha trước nỗi đau cắt xé ḷng mà
cuộc chiến để lại bao thứ hờn căm, hận thù giữa anh em với nhau. Bức tranh
ḷng trong tôi cứ hiện rơ ra khi đứng trên băi bồi lúc chiều về, lúc chùa
Linh Sơn tĩnh mịch hơn bao giờ hết. Nếu không bị ṃng muổi không có sự
ŕnh rập thù hận trong tiếng đại bác ban đêm th́ ngồi ở đây tĩnh tọa con
người sẽ minh mẫn, thư thái biết bao! Có lẽ thầy Trí Châu chọn ngôi chùa
này làm nơi tu tập thiền định là đúng y xứ lắm. Hồi ấy, tôi thường đọc
sách thiền và tập tành điều ḥa hơi thở, đáng ra cái sân trong tôi giảm đi
th́ phải đằng này th́ ngược lại, tôi hay nỗi nóng khi học sinh ngỗ nghịch,
phá phách hay thiếu chăm chỉ…Bởi thế, tôi được học sinh trao cho biệt danh
“Kim khùng”, không những tôi không bực tức mà lấy đó để soi lại con người
của ḿnh soi lại gương mặt sân si gớm ghiếc ấy. Biết nóng giận là chẳng
tốt lành ǵ chính nó thiêu rụi nhiều căn lành song nghiệp sân khó bề thóat
xác dù tôi có lấy việc ngồi thiền hằng đêm như để đối trị nhưng hiệu quả
đạt được chẳng là bao. Tôi t́m đến thầy Trí Châu để t́m hiểu học hỏi. Hằng
ngày thầy ngồi thiền hai lần, mỗi lần năm tiếng đồng hồ, chỉ ăn một bữa
ngọ. Gần như thầy có đủ mọi nhân duyên trong tu tập thiền định của ḿnh.
Thầy có giọng nói sang sảng rất khỏe, nước da sáng, đôi mắt tinh anh có
thần, phong thái của một thiền sư hiện ra rất rơ. Tôi cảm thấy được gần
thầy là một niềm vui tinh thần, như t́m được một bậc minh sư. Tôi được
thầy tiếp chuyện và trao cho những kinh nghiệm ngồi thiền. Thầy c̣n cho
tôi mượn cuốn vở ghi chép kinh nghiệm tu thiền của thầy. Nói chung thầy
động viên tôi bước đầu phải thật tinh tấn để vượt qua mọi chướng ngại tự
thân, phải có thời gian và tu đúng phương pháp…Tôi gần gũi chùa Linh Sơn,
thầy Trí Châu, Thượng tọa Trụ tŕ và các chú cũng chính từ bao hạnh tu bàn
bạc giữa cuộc sống này…Và ở Vạn Ninh hồi ấy, có lẽ chùa Linh Sơn là nơi tu
hành nghiêm túc nhất. Giữa chiến tranh, ở một vùng xôi đậu, ngôi chùa vẫn
được b́nh yên mới hay đức độ của vị Trụ tŕ là lớn lắm…
Càng gần gũi càng hiểu sâu nếp sống tôi càng nhận ra đức độ của vị Trụ
tŕ. Ngài rất kính nể và rất quí thầy Trí Châu. Thật ra, thầy Trí Châu
chẳng có nhu cầu ǵ ngoài áo đủ mặc, cơm một bữa nhưng như thế không có
nghĩa là không nhu cầu và ít nhất, giản đơn nhất cũng được Thượng tọa và
chúng điệu chăm lo một cách trân trọng. Dù vậy, tôi vẫn nghe chúng điệu
bảo thầy Trí Châu nóng lắm hay quát tháo những chuyện không đâu. Th́ ra
tôi đồng bệnh như thầy nên không lấy ǵ ngạc nhiên về chủng tử nóng giận
kia. “Đồng bệnh tương lân” mà! Có lần tôi hỏi thầy: “làm sao để đừng nóng
giận”? Thầy cười và bảo: “Cái ta chưa thấy rơ và nhàm chán cái thân bất
tịnh th́ c̣n sân giận”…
Thế rồi, một ngày nọ cái “Ta” của thầy bộc phát từ tấm ḷng từ của
thầy: sau khi xả thiền, thầy ra ngoài thấy các chú hương đăng cắt mấy cành
hoa đào để cắm vào b́nh cúng Phật, thầy liền bảo: “Trồng hoa th́ để cho nó
sống chứ cắt làm ǵ? Phật đâu có cần mấy ông cắt nó để cúng?”. Thế là thầy
bước đến đưa chân đá đỗ hết mấy chậu cây đặt trước thềm chùa, có chậu bễ
tan tành, có chậu lăn lóc giữa sân…Thấy vậy, trong chùa ai cũng thất kinh,
bực bội nhưng riêng vị Trụ tŕ, ngài Tịch Tràng biết rơ cái tính của thầy
hay nổi nóng vô cớ nên không một lời than phiền c̣n bảo các chú vui vẻ dọn
dẹp… Như vậy, th́ ai thật tu hơn ai? Và giữa hai vị thầy ai là người nh́n
thấy rơ cái thân bất tịnh này?! Thực tế đă trả lời.
Tôi nghe việc này từ các chú học ở trường Bồ Đề…Tôi giựt ḿnh tự hỏi:
Có phải thầy Trí Châu tu thiền càng cao, nội tâm càng bị dồn ép, dồn nén
đến độ “tẩu hỏa nhập ma” chăng? Vậy muốn thật sự tu chứng phải làm sao
đây? Phải chăng: “Phàm cái ǵ có h́nh tướng th́ đều hư vọng – Vạn duyên
buông hết, một niệm không sanh?”
Đă trên ba mươi bể dâu, vật đổi sao dời, Ngài Tịch Tràng và thầy Trí
Châu cũng đă qúa văng, nhưng chùa Linh Sơn đă trở thành một phạm vũ trang
nghiêm huy ḥang và chiếc cầu xe lửa ŕ rầm những đ̣an tàu qua lại, c̣n
gịng nước vẫn làm công việc bên bồi, bên lỡ trước mặt chùa rồi ḥa ḿnh
vào nước triều mặn nồng t́nh biển cả. Biển là chỗ về của trăm sông ngàn
suối và biết đâu chùa Linh Sơn cũng là chỗ về của người con Phật mười
phương trong đó t́nh người xứ Vạn thấm đượm vị nồng ân đức của Thầy Tổ
không phải là ít. Riêng tôi h́nh ảnh xâu chuỗi mười tám hạt trên tay Ngài
Tịch Tràng như hằn sâu trong trí nhớ, cái khác với thầy Trí Châu là ở chỗ
đó. Thôi th́ ở trời Âu Mỹ này, dừng chân lưu lạc nơi chùa Cổ Lâm thuôc
thành phố Seattle, tinh cần niệm Phật mà sống, mà cầu mong sao làm được
ḍng sông nhỏ trôi qua trước chùa như con sông Hiền Lương trước chùa Linh
Sơn vậy.
Sau cùng xin cám ơn Phước Thắng đă trao cho tôi nén hương thật quí để đốt
lên tưởng niêm nhân ngày húy kỵ của Ngài.
Seattle 10.2004
Nguyên Kim
|