MỘT SỐ TƯ LIỆU MỚI VỀ BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
TRÍ SIÊU - LÊ MẠNH THÁT
Chương I
Mười bốn văn kiện về bồ tát Quảng Đức
Như ta đã biết, bồ tát Quảng Đức sinh tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh,
huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà vào năm Đinh Dậu (1897), sau đó được cậu
ruột mình là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) đem về
nuôi cho xuất gia đã đặt pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là Hạnh Pháp và
pháp hiệu là Quảng Đức. Trong đợt điều tra điền dã mùa hè năm 2005, được
sự giúp đỡ và cung cấp của đại đức Thích Như Hoằng trú trì chùa Thiên Tứ ở
Núi Đất thuộc làng Mỹ Trạch, xã Ninh Hà, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà,
chúng tôi đã thu thập được một số tư liệu liên hệ đến hoạt động Phật giáo
của bồ tát Quảng Đức trong nửa đầu thế kỷ XX tại vùng Vạn Ninh cùng tổ
đình Long Sơn, nơi bồ tát Quảng Đức xuất gia và sau đó làm tri sự và tổ
đình Linh Sơn, nơi Bồ Tát kế thế làm trú trì vào những năm 1939-1945. Nhân
đây, cho phép tôi cám ơn đại đức Như Hoằng đã hết lòng giúp đỡ và cung cấp
các tài liệu liên quan đến bồ tát Quảng Đức và tổ đình Linh Sơn tại Vạn
Ninh.
Về mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức, chúng tôi lần lượt dịch
nghĩa toàn bộ chúng tuần tự từ thời điểm sớm nhất cho đến muộn nhất và
đánh số theo thứ tự thời điểm ra đời của chúng từ 1 đến 14.
1. Văn kiện ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933)
Khổ 15.5 x 28 gồm 2 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Toàn bộ viết
bằng chữ Nho. Chỉ có lời phê của một thủ trưởng (chef de poste) viết bằng
bút sắt mực tím. Giữa 2 tờ có đóng dấu giáp lai của xã Phước Thuận và dấu
triện của phủ Ninh Hoà.
Bần tăng chùa Thiên Ân xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà hiệu
Quảng Đức cúi đầu trình xin thương xét phê làm bằng cho phép bần tăng lạc
thành chùa Phật sự việc như sau:
Năm trước bần tăng có lòng thành, thầm nguyện tu tạo cửa ngõ, đúc vẽ tượng
Phật, mọi việc đã hoàn tất. Nay hào lý bổn xã và bần tăng đều chọn giờ
Thân ngày 26 tháng này thiết trai, lập đàn, đánh trống, thỉnh chuông, mỗi
lễ cẩn thận đầy đủ trai giới sám hối, để đền trả công ơn của Phật tổ. Đến
giờ Ngọ ngày 28 thì lễ hoàn mãn.
Bần tăng đến báo rõ cho hào lý sở tại ký nhận, rồi báo rõ cho chánh phó ở
trong tổng ký nhận sự thật, nhưng còn trộm sợ không có bằng chứng, chẳng
dám tự tiện. Vì thế, cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ xét thương,
phê chữ cho phép bần tăng trả ơn Phật tổ. Muôn ngàn trông cậy. Nay cúi đầu
trình
Ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (có đóng dấu Ninh Hoà phủ ấn và 6
con tem Indochine francais dán hai bên dấu)
Chánh tổng Nguyễn Liên ký (có đóng dấu của tổng Phước Khiêm)
Phó tổng Nguyễn Mộc Phỏng ký
Tùng bát phẩm đội trưởng Võ Văn Đạt thủ ký
Đại hào Lê Đàm thủ ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu của xã Phước Thuận)
Tộc biểu Nguyễn Nhượng thủ ký
Lão nhiêu Lê Mưu thủ ký
Tộc biểu Lê Giảng thủ ký
Tộc biểu Đỗ Uý (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Hoàng Huề thủ ký
Tộc biểu Bùi Thậm thủ ký
Tộc biểu Dương Lang (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Hồ Qua (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Phan Mãnh (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Trần Túc (có lăn dấu tay)
Hương bộ Hoàng Tri thủ ký
Hương kiểm Nguyễn Huấn thủ ký
Hương bổn Nguyễn Nghĩa thủ ký
Bần tăng chùa Thiên Ân hiệu Quảng Đức thủ ký
2. Văn kiện ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Gồm 11 tờ giấy bổi, khổ 14.5 x 2. Trong đó có 2 tờ chép trùng nhau và có
đóng dấu của xã Phước Thuận. Chưa rõ lý do cụ thể tại sao lại có một bản
chép trùng nhau như thế. Đây chắc là để bảo đảm, nếu bản chính có mất thì
còn có bản phó. Nội dung là để xin sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Từ tờ 3 trở
đi trên bản danh sách của người ký xin đều có ghi tám chữ Khất mông ân tứ
Thiên Ân tự từ (Đơn xin được sắc tứ cho chùa Thiên Ân).
Bần tăng xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà Lâm Văn Tuất hiệu
Quảng Đức cúi đầu trình xin mong ơn may được chuyển bẩm sự việc như sau:
Bần tăng ở thờ Phật chùa cổ tích Thiên Ân tại xã ấy (do nguyên trước xã
Phước Đức). Nhưng chùa đó vào khoảng năm Minh Mạng (1820-1840) có trú trì
Hoàng Văn Dự pháp danh Thiên Phước ở đấy tu trì. Lần ấy, kính vâng một
khoảng trong lịnh vua bảo ngày trung nguyên thiết lập đạo tràng thủy lục
siêu độ cho hương hồn các quan binh trận vong, dùng để giúp cho cõi âm
được phước, nhân đó nhận được một bức độ điệp do bộ lễ cấp. Sự ưu ái của
ơn vua, dấu xưa vẫn còn, bèn kính sao chép, mong được thưa xin bẩm thỉnh
sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Kính nghĩ bần tăng tự lúc ở chùa thờ Phật đến
nay đã trải qua nhiều năm. Nhân dân các tổng xã thôn lân cận phàm có ai bị
trọng bệnh hiểm nguy, đến chùa cầu xin, may nhờ thế mà được yên lành. Điều
đó ai cũng điều công nhận là linh nghiệm, phần lớn thật ra là nhờ đức tổ
Thiên Phước của bần tăng tu trì từ xưa mà để ơn trạch lại.
Bèn dám cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ may được chuyển bẩm, giúp
cho bần tăng được ơn mưa móc thấm vào, thêm sáng ngời cho chùa chiền. Muôn
lần trông cậy đức vô cùng. Nay cúi đầu trình có bao các xã lân cận công
nhận cùng với chư sơn ký nhận xin ghi vào sau:
Ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Phước Thuận)
Nguyên tùng bát phẩm đội trưởng Võ Đạt ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu xã Phước Thuận)
Miễn sai, Nguyễn Tâm thủ ký
Phó tổng dụng Bồi Du thủ ký
Đại hào mục Lê Đàm thủ ký
Hương bộ Huỳnh Tri ký
Hương bộ Nguyễn Mỹ thủ ký
Hương kiểm Huỳnh Kim áp chỉ
Hương mục Nguyễn Đình Tú thủ ký
Hương thơ Nguyễn Bách thủ ký
Chư sơn công nhận như sau:
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền
Lương hiệu Thiên Quang vái ký
Chùa cổ tích Thiên Bữu xã Điềm Tịnh tự là Không Tang hiệu Nhơn Sanh vái ký
Giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang là Quảng An vái ký
Hoà thượng xà lê chùa cổ tích Kim Ấn xã Phú Gia hiệu Vạn Phước vái ký
Trú trì chùa cổ tích Linh Quang xã Xuân Hoà (hiệu) Vạn Trí thủ ký
Trú trì chùa Thiền Sơn xã Trường Lộc hiệu Nhơn Hưng thủ ký
Trú trì chùa Vạn Phước xã Cung Hoà hiệu Nhơn Thị vái ký
Trú trì chùa Kim Long xã Phú Hoà hiệu Nhơn Duệ vái ký
Giáo thọ chùa Linh Sơn xã Tiên Du hiệu Nhơn Hoằng thủ ký
Trú tăng chùa Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất ký
Tăng chùa Bảo Phước xã Hậu Phước hiệu Nhật Chiếu thủ ký
Tăng trú thủ chùa Khánh Long xã Phước Đa hiệu Phổ Châu vái ký
Tăng trú trì chùa Thiên Bữu xã Mỹ Hợp hiệu Phổ Nhãn vái ký
Chùa Khánh Long xã Long Hoà
Chùa Báo Ân thôn Hội Khánh
Tổng Đồng Trung
Tổng Thân Thượng
Lý trưởng tổng Tu xã Phước Sơn tổng Phước Khiêm ký (có đóng dấu xã Phước
Sơn)
Lý trưởng Diệp Quang xã Vĩnh Phú ký (có đóng dấu xã Vĩnh Phú)
Lý trưởng Ngô.. xã phú Nghĩa ký (có đóng dấu xã Phú Nghĩa)
Phó tổng tổng Thân Thượng
Chánh tổng tổng Phước Hà ngoại (có đóng dấu tổng Phước Hà ngoại)
Phó tổng tổng Đồng Trung
Quyền lý trưởng Nguyễn Vịnh xã Xuân Hoà tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã
Xuân Hoà)
Cửu phẩm lý trưởng Võ An xã Phượng Cương tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu
xã Phượng Cương)
Viện đại biểu nhân dân tỉnh Khánh Hoà
Lý trưởng Phạm Xuân thôn Mỹ Thuận tổng Ích Hạ ký (có đóng dấu xã Mỹ Thuận)
Nguyên tùng cửu phẩm bá hộ Yết ma chùa cổ tích Thiên Ân Lâm Văn Tuất hiệu
Quảng Đức thủ ký
Người vâng lịnh chép thay thuộc xã Hiền Lương: Trần Thoả (đệ tử pháp danh
Đồng Minh) vái tự ký
3. Văn kiện ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại thứ 15 (1940)
Gồm 12 tờ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, mỗi tờ 2 trang a và b. Giữa các trang
1b và 2a và 2b và 3a có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương. Chữ viết bằng
bút lông mực Tàu, nhưng trong phần phương danh những người cúng thì có chỗ
viết bằng mực xanh hay mực tím của bút sắt. Chổ thị thực của chánh tổng
Phạm Minh ở tờ 1b1 cũng viết bằng bút sắt mực xanh.
Trú trì chùa Sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức (và giám tự ) Viên Giác của xã
Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh vì xin báo cáo, lập lời
công việc như sau:
Điện Phật của bổn chùa đã trải nhiều năm. Nay bần tăng thấy điều đó đau
lòng, khiến bèn thành tâm phát nguyện trùng tu phạm vũ. Nhưng bổn chùa
không có tiền bạc của cải xuất ra. Vì thế, nay báo rõ cùng với chư sơn
thiền đức cùng bổn đạo thiện nam tín nữ người hiền con Phật rộng phát lòng
từ, giúp cúng tiền bạc nhiều ít, nhân đó mà sửa sang việc Phật. Bởi đó,
tôi trình bày đầy đủ cho lý hào trong tổng sở tại chứng nhận sự thật, có
bao nhiêu thiện tín viên chức giúp cúng, đều liệt kê phương danh vào sau
đây, để ghi bảng lưu truyền. Xin chúc hiện tiền phước thọ tăng long, ngày
sau cùng lên nước Phật. Nay xin có lời báo cáo.
Ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại 15 (1940)
Ngày mồng một tháng năm chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu
của tổng Phước Tường nội)
Trú trì chùa Sắc Tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Giám tự hiệu Viên Giác thủ ký.
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu của xã Hiền Lương)
Sở tại lý trưởng Trần Ứng Long ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Hào thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Chánh cữu phẩm đội trưởng Trần Lự cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa cổ tích Khánh Long kiêm kiểm tăng các chùa huyện nhà hiệu Vạn
Minh hộ niệm cúng tiền 1 đồng
Đàn đầu hòa thượng chùa sắc tứ Linh Quang xã Đa Lạt đạo Đa Lạt tỉnh Đồng
Nai thượng hiệu Nhơn Thứ giúp cúng tiền 10 đồng ký tên hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là đương dương A xà lê hiệu Nhơn Thọ hộ
niệm cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là Hòa thượng giáo thọ hiệu Vô Vi hộ
niệm cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà là Như Ngọc vâng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa sắc tứ Linh Sơn hộ trang Trần Dược pháp danh Như Quảng cúng
tiền 50 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa Quảng Long hiệu Hoằng Thọ hộ niệm cúng tiền hai đồng hiện đã
giao
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn Như Trung phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang hiệu Hoằng Đạo phụng cúng tiền 5
đồng ký hiện đã giao
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang tự Giải Diệu phụng cúng tiền 5 đồng
ký hiện đã giao
Hòa thượng chùa sắc tứ Thiên Hoà Nha Trang hiệu Chân Nguyên phụng cúng
tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Hải Đức tệ nạp Bích Không phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Yết ma chùa sắc tứ Hội Phước Nha Trang hiệu Tín Thành phụng cúng tiền 20
đồng
Linh Phong cổ tự Yết ma Chơn Hoà hộ niệm phụng cúng thủ ký
Chủ chùa chùa Báo Ân ở Hoa Tu hiệu Diệu Đạo phụng cúng 2 đồng
Chánh tổng Nguyễn Diễm xã Tân Phước phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Thủ tự chùa Long Hoà pháp danh Đồng Sanh phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện
đã giao
Chủ chùa chùa sắc tứ Di Đà xã Mỹ Đồng Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm phụng
cúng tiền tu bổ 100 đồng hiện đã giao
Thất phẩm Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền chánh
điện 300 đồng hiện đã giao
Bùi Du xã Mỹ Đồng pháp danh Như Nhàn cùng vợ pháp danh Như Chánh phụng
cúng tiền tu bổ 20 đồng hiện đã gia
Cựu hương bộ pháp danh Như Hữu xã Phước Thủy phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng
hiện đã giao
Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền tu bổ 5 đồng hiện
đã giao
Pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
La Thị Nam phố Hội An tỉnh Quảng Nam phụng cúng tiền tu bổ 5 hào hiện đã
giao
Phan Thị Ức pháp danh Như Tánh xã Tân Đức phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng
hiện đã giao
Lại Thị Chung pháp danh Đồng Thủy xã Phước Thuận phụng cúng tiền tu bổ 2
đồng hiện đã giao
Phú Hội thôn đông cúng tiền 5 đồng Thân Trọng Giáp ký hiện đã giao
Pháp danh Như Thanh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 10 đồng ký hiện đã giao
Trần Thông xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Như Đính xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Phát xã Hiền Lương phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Lê Lễ Nghi xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phú Hội nguyện cúng tiền 10 chẵn hiện đã giao, Phạm Ngọc Quảng tự ký hiện
Phan Quang Đức ngụ Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu tri yển Trần Tình xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Vợ chồng Nguyễn Xôi Nguyễn Thị Hoán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 3
đồng hiện đã giao
Vợ chồng Trần Thuần xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Bà cô pháp danh Chơn Thành xã Trung Dõõng phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Võ Minh xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Văn Khả và vợ Lê Thị Giàu xã Mỹ Tương phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã
giao
Võ Khắc Cần pháp danh Như Chỉnh thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Hải Nam bang Ngô Dụ Hoà và vợ Phan Thị Vạn ngụ Tân Mỹ thôn phụng cúng tiền
tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Hải Nam bang Phù Thị Thành hiệu Chung Thị Thôi phụng cúng tiền 5 đồng hiện
đã giao
Hải Nam bang Phan Phong Lợi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Nở và vợ Nguyễn Thị Đẩu xã Đô Doanh phụng cúng tiền 5 đồng hiện
đã giao
Nguyễn Văn Của pháp danh Như Tài và vợ Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn
Tân Đức phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao Dương Thị Tiếu xã Phú Cang
phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Muộn pháp danh Như Cảm xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 10
đồng chẵn hiện đã giao
Nguyễn Thị Thìn pháp danh Như Hiển xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 3
đồng hiện đã giao
Bùi Thanh Liên ngụ xã Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Lê Xán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Sắc tứ cổ tích Thiên Ân Ngô Bình pháp danh Đồng Chính phụng
cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Hội viên hội Phật học xã Mỹ Trạch Ngô Cao Lâu phụng cúng tiền 2 đồng hiện
đã giao
Hội trưởng hội Phật học đạo Đa Lạt Võ Đình Dung pháp danh Tâm Thuận phụng
cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử Nguyễn Thị Cho pháp danh Đồng Lạc đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 5 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Đắc pháp danh Đồng Quả đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 1 đồng hiện
đã giao
Triều Châu bang Thái Nhâm Đông cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Tăng phụng
cúng tiền 2 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Hạnh phụng
cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Thế phụng
cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Vĩnh Điềm xã Phạm Thị Tài pháp danh Như Thắng
phụng cúng tiền 20 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn pháp danh Trừng Xưng phụng cúng
tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Trường Đông thôn Phạm Thị Đoá pháp danh Chơn Vịnh phụng cúng
tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Trường Tây thôn Phạm Ngọc Diễm pháp danh Chơn Dũng phụng cúng
tiền 1 đồng hiện đã giao
Cửu phẩm Hồ Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Võ Đình Dương thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Sài Cầu Phạm Quyên (cúng) tiền 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp danh Thị Dương xã Phú Cang phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp danh Như Phổ thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Đại hào mục Hoàng Cẩâm thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như Nghiêm thôn Đại Lãnh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký
Đầu vu cổ tích Khánh Long tự đệ tử Nguyễn Khắc Đính pháp danh Tâm Trung xã
Tân Phước ở Tu Bông phụng cúng tiền 2 đồng tự ký hiện đã giao
Hoàng Khiêm pháp danh Như Cung xã Long Hòa phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Nguyễn Thị Miệng thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Thị Lạc pháp danh Như Nhật thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Huỳnh Chiêm Giảng pháp danh Như Ân xã Phong Phú phụng cúng tiền 1 đồng
hiện đã giao
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương xã Hiền Lương phụng cúng tiền 15
đồng hiện đã giao
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận xã Hiền Lương phụng cúng tiền 6 đồng hiện đã
giao
Phó lý Lê Đê xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng ký
Hương mục Nguyễn Du xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng có ký hiện đã
giao
Cựu hương mục Nguyễn Nhượng xã Hiền Lương phụng cúng tiền 4 đồng thủ ký
hiện đã giao
Phó hương bộ Hồ Vừa xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã
giao
Hương lâm Trần Minh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã
giao
Hương bộ Nguyễn Khánh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã
giao
Hương dịch Trần Đức xã Hiền Lương thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Miễn sai hương mục Trần Hậu xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 đồng thủ ký
hiện đã giao
Cựu hương dịch Lê Chân xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã
giao
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
hiện đã giao
Cựu trùm yển Nguyễn Hữu Thạnh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
hiện đã giao
Trường phu Lê Cần xã Hiền Lương cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao
Thiều Quang Lâm xã Lạc An cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Nay pháp danh Như Bình và vợ Nguyễn Thị Diệp pháp danh Như An thôn
Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng, Đặng
Thị Nhẫn áp chỉ hiệp giao
Đại hào Hồ Nghị xã Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng thủ ký hiện đã giao
Tri yển Huỳnh Kiều xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã
giao
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến phụng cúng tiền 5 đồng chẵn
Nguyễn Phi phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hương bổn Nguyễn Cẩn phụng cúng tiền 2 đồng ký
Hương dịch Trương Hạ phụng cúng tiền 1 đồâng thủ ký hiện đã giao Hương
kiểm Lê Giáp xã Hiền Lương cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao
Phạm Lý phụng cúng tiền 10 đồng chẵn hiện đã giao
Phùng Hữu Phương thôn Tân Mỹ cúng tiền 2 đồng chẵn
Cựu lý trưởng Nguyễn Ưng pháp danh Như Ngoạn xã Quảng Hội phụng cúng tiền
5 đồng hiện đã giao
Trần Liên xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao Vợ chồng Đỗ
Văn Tri xã Hiền Lương cùng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Lý Hiệp Có xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 đồng ký
Phó tổng dụng Hồ Lạp xã Xuân Tự phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Ngô Văn Hảo pháp danh Đồng Nguyện xã Hiền Lương Vạn Ninh phụng cúng tiền 5
đồng ký hiện đã giao
Hồ Thái và vợ Hồ Thị Xuyến xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Sanh pháp danh Đồng Phóng xã Phước Thuận phụng
cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Trần Khổng pháp danh Đồng Ích và vợ Vũ Thị Hiên thôn Ngân Hà phụng cúng
tiền 10 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Nguyễn Tú thôn Ngân Hà cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Cựu binh phiên Đoàn Thỏa thôn Bách Hà cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Vũ Vạn thôn Bách Hà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Linh Sơn đường thượng đệ tử Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long phụng cúng 1
đồng hiện đã giao
Vũ Thị Pháp pháp danh Tâm Nhuận xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã
giao
Chung Thị Lành pháp danh Tâm Hiền xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Pháp danh Chơn Chí Hoàng Thiện Tả xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Võ Thị Lượng pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ Ninh Hòa phụng cúng tiền 5 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Bành Thị Hoà pháp danh Đồng Cảm xã Vĩnh Phú phụng cúng tiền 5 đồng đã giao
Con ruột Lưu Chí phụng cúng tiền 1 đồng đã giao
4. Văn kiện ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo Đại 15 (1940)
Gồm 3 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, không bìa.
Mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng nhiều nhất là 23 chữ, ít
nhất là 4 chữ. Đây là bản kê khai pháp bảo và tự khí cùng vật hạng của tổ
đình Linh Sơn khi Bồ tát Quảng Đức về làm trú trì ngôi tổ đình này.
Ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo Đại thứ 15 (1940)
Chùa Linh Sơn hiệu là Hoằng Chất vâng chép
Bổn chùa là cổ tích Linh Sơn được sắc tứ (ngày tháng 3 năm này được sắc
tứ). Nay hiện có trú trì là Hoà thượng yết ma hiệu Quảng Đức, nay pháp bảo
và tự khí cùng vật hạng của bổn chùa Linh Sơn do nguyên cố đàn đầu hoà
thượng ông lưu truyền lại ở đây xin nhận ghi vào sau:
Chùa ngói bốn tòa, tường vách bao quanh bốn phía đều đầy đủ (do trải qua
đã lâu, hư nát nhiều)
Đơn ruộng, giấy khế ước Tây Nam 13 trang (ruộng Chương, Cầu Cao, ruộng Bàu
ở địa phận xã Hiền Lương, gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huềø, do ngày 15
tháng này, nghiệp chủ có ghi lời giao nhận tồn chiểu bên ngoài)
Hình tượng Phật Thánh do đẻo sơn đúc hoạ:
Phật tam thế ba ngôi
Tượng Phật trung 12 tượng
Tượng Phật tiểu 12 tượng
Tượng Hộ pháp 2 tượng
Tượng Thánh già lam 3 tượng
Tượng Chúa Bà hoàng cô 5 tượng
Tượng Tiêu Diện bàn ngoài 5 tượng
Hình vẽ Lục Tổ trên giấy 1 bức
Sám bài 12 bộ ( 10 bức)
Hình vẽ Thập Điện trên giấy 1 bức
Hình vẽ La Hán trên giấy 1 bức
Tượng Già lam vẽ trên giấy và bố 2 bức
Long vị hậu tổ 1 ngôi
Long vị cố giác linh Hoà thượng ông 1 ngôi
Long vị giác linh Hoà Thượng chùa Long Sơn 1 ngôi
Long vị đương kim 1 ngôi
Màn gió án thờ tiên linh 1 bức
Long vị và thần vị của đàn na thí chủ 16 bàn
Chuông trống pháp bảo
Hồng chung cổ tích 1 chiếc
Trống sấm 1 chiếc
Chuông gia trì 1 chiếc
Chuông bảo chúng 1 chiếc
Chuông hạng trung 1 chiếc
Chuông hạng tiểu 1 chiếc
Trống trung 1 chiếc
Mõ lớn 1 chiếc
Mõ nhỏ 2 chiếc
Linh chẩn tế 2 chiếc
Tang 2 chiếc
Tích trượng bia son 1 bộ
Y bát pháp bảo
Y đỏ 25 điều 1 chiếc
Y đỏ lợt 25 điều 1 chiếc
Y chín điều tơ trắng 1 chiếc
Mũ tỳ lư, mũ hiệp chưởng 2 chiếc mới tốt
Mũ tỳ lư cũ rách 1 chiếc
Tràng phan loại mới 6 cái
Bàn rước loại mới của Hà Nội 2 chiếc
Bàn rước loại cũ 2 chiếc
Long bài 1 hộp
Linh bảo ấn 1 chiếc
Ấn in năm tháng 1 chiếc
Tánh tích pháp hiệu của cố Hòa thượng ông 1 hộp
Pháp kính 1 chiếc
Phật quang chẩn tế 1 bộ
Cọp đất 1 bộ
Ấn in năm tháng Tam bảo 2 chiếc
Kinh điển cũ mới
Thiền môn nhật tụng 1 quyển
Luật Tỳ ni nhật dụng thiết yếu 1 quyển
Tỳ ni nhật dụng 1 quyển
Long thư tịnh độ 1 quyển
Luật giải loại cũ 1 quyển
Chi na tỳ kheo giới bổn lưu nghĩa loại cũ 1 quyển
Địa tạng kinh loại mới 1 bộ (3 quyển)
Tam bảo kinh loại mới 1 bộ (3 quyển)
Mông sơn thí thực khoa loại cũ 2 quyển
Trung khoa du già loại mới 2 quyển
Mông sơn khoa đại bản loại mới 1 quyển
Du già thí thực khoa nghi đại bản loại cũ 1 quyển
Bát dương kinh loại mới 1 quyển
Báo ân kinh loại mới 1 bộ 1 quyển
Thủy sám đại bản loại mới 1 quyển
Vô lượng nghĩa kinh 1 quyển
Kim cang quảng thích thượng trung hạ 1 quyển (bản sao)
Đại phương tiện báo ân kinh loại cũ 3 quyển (1,2,3,4,5,6,7)
Lục tổ bảo đàn kinh cựu đại bản 1 quyển
Kim quang kinh loại mới 1 bộ cọng 5 quyển (1.2.3.4.5.6.7.8.9.10)
Kim cang giải nghĩa kinh loại cũ 1 quyển
Bát dương kinh loại cũ 2 quyển
Thủy sám kinh loại cũ 1 bộ 3 quyển
Ngọc lịch tiểu bản 3 quyển
Cựu Pháp hoa kinh 4 quyển
Ngũ bách kinh loại mới 1 quyển
Bán nguyệt kinh 1 quyển
Pháp Hoa kinh loại mới 1 bộ 7 quyển
Báo ân kinh loại mới 1 bộ 3 quyển
Dược sư kinh 1 quyển
Phạm võng kinh 1 quyển
Nhã tục công văn 1 bộ 4 quyển
Cao vương Quán Thế Âm kinh
Phổ Môn giấy tây 1 quyển
Quan thánh đế quân chân kinh mới cũ 3 quyển
Tịnh trù cấp thủy phóng sanh phóng đăng dương phan thiên 1 cặp (dấu chữ
của sư ông)
Tông tích bí truyền thiền lâm thiên tiểu bản 1 tập
Thiền môn sách tấn 1 quyển
Vu lan bồn kinh 1 quyển
Luận ngữ 2 quyển
Mạnh tử 3 quyển
Trung dung 1 quyển
Thi kinh 1 quyển
Nam quốc địa dư 1 quyển
Địa lý 1 quyển
Tử vi 1 quyển
Y thơ 4 quyển (lại bản chép 1 quyển
Tự điển 1 quyển
Vận 1 quyển
Ngọc hạp thông thơ loại cũ 1 quyển
Vật hạng linh tinh trở xuống
Bình vôi 1 ống
Bàn thờ ghế thờ lớn nhỏ dài ngắn mỗi thứ cộng 18 chiếc
Ván ngựa 2 bộ (gồm 12 tấm)
Thẩu sành (đồ đựng cơm) 2 cái
Chén bát nung tốt xấu 300 chiếc
Giường nằm 4 chiếc
Nồi đồng lớn nhỏ 6 chiếc (1 tuổi 1 chiếc, 2 tuổi 2 chiếc, nửa tuổi 1
chiếc, 3 tuổi 2 chiếc, tuổi lỡ 1 chiếc
Nồi gang đại tiểu 2 chiếc
Cối đá giả bột 1 chiếc
Cối xay lúa 1 chiếc
Cối giả gạo 2 chiếc (đá và cây)
Đèn toạ đăng 3 chiếc
Đèn thường dùng loại nhỏ 6 cây
Trường kỷ mây một chiếc
Hộp đồng cao trù 3 chiếc
Đồ trà 2 bộ hai dĩa 8 chén nhỏ
Hộp gỗ 4 cái (1 cái cẩn xà cừ)
Ang đất 2 cái (chứa nước lạnh)
Lu đất loại lớn 1 cái
Thạp đất chứa gạo 2 cái
Vò đất chứa tương 10 cái
Bình trà 2 cái (lại 1 cái)
Tam sơn cẩn xa cừ 1 bức
Lò đồng hút thuốc 1 cái
Rương giác 1 cái
Chậu hoa bằng đất lớn nhỏ 10 chậu
Chùa Linh Sơn hiệu là Hoằng Chất thủ ký
Trần Thoả viết thay tự ký
5. Văn kiện ngày mười tháng giêng năm Bảo Đại thứ 16 (1941)
Gồm 3 tờ giấy bổi láng có một bìa lưng màu đỏ gạch, đóng lại bằng chỉ giấy
bổi, khổ 15.5 x27, không đánh số tờ. Mỗi tờ 2 trang a và b. Trang 1a có 8
dòng, mỗi dòng trung bình 27 chữ, chép nội dung lá đơn viết cho quan huyện
Vạn Ninh xin phép đem ruộng chùa cho mượn để lấy tiền sửa chùa. Từ các
trang 1b-2a và trang 2b-3a, ở giữa có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương
và tổng Phước Tường nội, ghi lại niên đại và tên các người đứng đơn cũng
như viên chức làng xã.
Tông phái sắc tứ chùa cổ tích Linh Sơn tại xã Hiền Lương tổng Phước Tường
nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà là Lâm Văn Tuất Yết ma hoà thượng sung
kiểm tăng hiệu Quảng Đức kính trình vì được ơn mong phê làm bằng sự việc
sau:
Trải trước đây, cố hoà thượng hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện và nhà
cửa đông tây ba toà của bổn chùa Linh Sơn, lai lịch đã trải qua nhiều năm
cho tới đây. Nay bần tăng nhận lấy tông phái nầy, thấy cây gỗ ngói gạch
phần lớn đã hư nát, đến nỗi bần tăng và lý hào bốn xã gia tâm giúp đỡ nghĩ
làm, lại nhận được số tiền công hứa trích cho của quan trên.
Nhưng trộm nghĩ công trình thì lớn nặng, chánh điện Phật đường chưa được
thành tựu trang nghiêm, đến nỗi bần tăng nói rõ với lý hào bổn xã cho được
tự do đem các sở ruộng chùa của bổn chùa cho mướn, để lấy tiền sung vào
việc chi trả các khoản trùng tu chùa. Vì thế, cúi mong huyện đường đại
nhân các hạ phê cho làm bằng, hầu tiện thừa hành Phật sự.
Nay kính thừa kê các ruộng do dâng cúng mà bổn chùa đã có để trình xét.
Nay kê:
Các thửa ruộng ở chỗ Cầu Cao, chùa Các, chùa Chương thuộc địa phận xã Hiền
Lương
Các thửa ruộng ở gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huề
Nay xin kê
Ngày mồng mười tháng giêng năm Bảo Đại 16
Chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Sở tại lý trưởng cửu phẩm Trần Ứng Long chứng ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự
Chánh cửu phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu phẩm Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Trọng cảnh thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục Lê Tế thủ ký
Đại hào mục Hồ Nghị thủ ký
Đại hào mục NguyễnThả thủ ký
Miễn sai hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai hương mục Trần Yến thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng dụng hương bổn Nguyễn Cẩn thủ ký
Chánh hương bộ Nguyễn Khánh thủ ký
Phó lý Lê Đê thủ ký
Phó hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Hương dịch Trần Khôi thủ ký
Cựu hương mục Nguyễn Thành thủ ký
Cựu trùm yển Nguyễn Thạnh thủ ký
Cựu hương dịch Ngô Hảo thủ ký
Cựu hương thơ Trần Văn Thông thủ ký
Hương mục Nguyễn Du thủ ký
Cựu phó lý Nguyễn Vạn thủ ký
Thay viết thế xin bằng Trần Thoả (người xã Hiền Lương) tự ký.
6. Văn kiện ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 18 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 26. Trong số 18
tờ này, có đến 5 tờ để trống cả mặt không có viết chữ, tức các tờ 5, 7, 8,
9 và 11, nhưng lại có khuôn dấu xã Hiền Lương đóng dấu giáp lai, chứng tỏ
các tờ này đã xuất hiện ngay từ đầu, lúc văn kiện mới ra đời. Chữ viết dễ
đọc bằng bút lông mực Tàu, nhưng thỉnh thoảng có hai dòng viết bằng bút
sắt. Văn kiện đây đề cập đến việc quyên tiền cho công tác trùng tu chánh
điện tổ đình Linh Sơn.
Yết ma tông phái chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước
Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức viết lời báo cáo sự
việc sau:
Trải trước đây, cố hoà thượng hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện Linh
Sơn của bổn chùa. Lai lịch trải qua nhiều năm, đến nay cây gỗ ngói gạch
phần lớn bị giộp hư phải nên sửa lại mới một phen. Vì thế, bần tăng vâng
nhận công phái này, trùng tu dựng lại, kính cáo chư sơn thiền đức và An
nam Phật học hội cùng bổn đạo con Phật, thiện tín viện chủ các lớp người
phát lòng từ tế lớn vui giúp của cải ít nhiều, xưng dương giúp nghĩ, mãi
lưu ơn miên viễn, ghi bảng lưu truyền quí tính phương danh đều thấm nhuần
quả phúc. Nay có lời kính cáo. Lại chúc hiện tiền phước thọ tăng long,
ngày sau đều lên cảnh Phật.
Ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16 (1941)
Chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Lý trưởng sở tại cửu phẩm Trần Ứng Long chứng ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện
đã giao
Chánh cửu phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu phẩm Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục Lê Tế thủ ký
Đại hào mục Hồ Nghị thủ ký phụng cúng tiền chánh điện 6 đồng
Miễn sai hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai hương mục Trần Yến thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng dụng hương bổn Nguyễn Cẩn thủ ký
Chánh hương bộ Nguyễn Khánh thủ ký
Phó lý Lê Đê thủ ký
Phó hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Hương dịch Trần Khôi thủ ký
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành thủ ký
Cựu hương thơ Trần Văn Thông thủ ký
Hương mục Nguyễn Du thủ ký
Cựu hương bổn Nguyễn Vinh áp chỉ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã
giao
Đại hào mục Nguyễn khả thủ ký
Cựu phó lý Nguyễn Vạn thủ ký
Cựu hương dịch Phan Lộc áp chỉ
Thay viết lời thế đệ tử Trần Đồng Minh (tức Thoả) tự ký
Chư sơn thiền đức hộ niệm giúp cúng dựng lại chánh điện như sau:
Giáo thọ hoà thượng chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn hiệu Quảng An vâng tổ
đường cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Giáo thọ hoà thượng chùa cổ tích Hoa Tiên của Diên Khánh hiệu Phổ Thiên
cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Chánh tri sự chùa Phú Phong của Diên Khánh hiệu Bảo Đàn giúp cúng tiền 3
đồng ghi cúng
Giáo thọ hoà thượng chùa Khánh Long hiệu Nhơn Hưng phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà hiệu Huyền Châu phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Trú Trì chùa cổ tích Quảng Long hiệu Hoằng Thọ phụng cúng tiền 10 đồng
dựng lại chánh điện
Trú trì chùa Long Hòa pháp danh Đồng Trì hiệu Từ Tín phụng cúng tiền chánh
điện 1 đồng hiện đã giao
Đức Tân phổ của Tân Mỹ pháp danh Thi Dương hiệu Từ Thái phụng cúng tiền
chánh điện 3 đồng
Chi hội Phật học Ninh Hòa cúng tiền như sau:
Chánh đại diện Bùi Dương phụng cúng 5 đồng (Quan huấn đạo Đồng Đức hiện đã
giao)
Đại diện Cao Chính phụng cúng tiền 4 đồng (hiện đã giao)
Huỳnh Cao Sách 2 đồng (pháp danh Đồng Trí hiện đã giao)
Ngô Kỳ và Ngô Cao Lâu của Mỹ Trạch (Đồng Bảo và Đồng Xuân) cúng 5 đồng
Nguyễn Liên xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Hội xã Phước Đa pháp danh Đồng Trung phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Nguyễn Châu xã Phú Thạnh pháp danh Quảng Tu cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Ngô Bình đệ tử chùa Thiên Ân cùng gia quyến pháp danh Đồng Chính cúng 5
đồng hiện đã giao
Lạc An Phạm Lựu đệ tử chùa Thiên Ân pháp danh Đồng Thọ cúng tiền 1 đồng
Đệ tử Lê Hoàng xã Phú Thạnh pháp danh Chơn Huy cúng tiền 1 đồng
Vợ chồng Lại Mô pháp danh Đồng Nhẫn xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Hiền pháp danh Đồng Lương ngụ xã Tân Ninh cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Thông lại phủ Ninh Hòa Lương Đình Hy pháp danh Tâm Tiến phụng cúng tiền 5
đồng hiện đã giao
Phương danh bổn đạo thiện tín phát tâm giúp cúng chánh điện liệt kê như
sau:
Thất phẩm Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng tổng
Phước Tường nội huyện Vạn Ninh phụng cúng tiền 400 đồng chẵn (hiện đã
giao)
Vợ chồng cựu lý trưởng Bùi Văn Du pháp danh Như Nhàn Như Chánh xã Mỹ Đồng
phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Lý trưởng Nguyễn Ốc pháp danh Đồng Tại hiệu Huệ Tác xã Vinh Huề phụng cúng
tiền 2 đồng chưa giao
Hương thơ Nguyễn Ái pháp danh Đồng Nhân hiệu Từ Thành xã Vinh Huề phụng
cúng tiền 1 đồng chưa giao
Đệ tử Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn Tân Đức phụng cúng tiền chánh
điện 10 đồng hiện đã giao
Huỳnh Thị Điệu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 20 đồng hiện đã
giao
Vợ chồng Phan Quang Đức người Minh Hương ngụ xã Hiền Lương phụng cúng tiền
13 đồng hiện đã giao
Vợ chồng lão nhiêu cựu hương trưởng Lê Kỷ xã Hiền Lương phụng cúng tiền
chánh điện 10 đồng chẵn hiện đã giao thủ ký
Vợ chồng phó lý Trần Mẫn xã Minh Hương ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền
chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Cữu phẩm Hồ Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Tăng già Nguyễn Đồng Kính xã Quảng Hội phụng cúng 2 đồng, hiện giao 1 đồng
Vợ chồng Bùi Yên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã
giao
Liên Thị Hoa ngụ xã Tân Mỹ quyên tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu hương bộ Lê Lương ngụ xã Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện
đã giao
Quản Văn Hương pháp danh Như Qui xã Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng
Lữ Cao Gia pháp danh Như Hào thôn Tân Mỹ cúng tiền 1 đồng
Phạm Sử ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao
Phạm Vi thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng
Đệ tử Trần Thật pháp danh Đồng Tâm chùa Sắc tứ Thiên Ân cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Năng pháp danh Như Nhẫn thôn Phú Hội phụng cúng tiền chánh điện 10
đồng hiện đã giao
Ngô Văn Kỳ pháp danh Đồng O xã Xuân Tự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng
hiện đã giao
Phạm Hối xã Quảng Hội phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như Ngang xã Quảng Hội cúng tiền 2 đồng (Nguyễn Thị Lai)
Nguyễn Thị Ổn pháp danh Đồng Yến xã Quảng Hội phụng cúng tiền chánh điện 2
đồng hiện đã giao
Nguyễn Đình Lan xã Phú Gia phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cô Năm Diệu Hữu xã Bảo An phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Di Đà Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm được vua sắc ban Háo
nghĩa khả gia cúng tiền 100 đồng cùng bốn cột cây kè chánh điện trị giá
tiền 55 đồng hiện đã giao
Phan Thị Quí phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng hiện
đã giao
Phan Thị Ức pháp danh Như Tánh ngụ thôn Tân Đức phụng cúng tiền 10 đồng
hiện đã giao (do Hải thạch bát xích hiện giao)
Trần Thị Như xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Cò Trần Thị Diễu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng
hiện đã giao
Vợ chồng lão nhiêu Nguyễn Văn Xuy xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện
3 đồng ký hiện đã giao
Vợ chồng cựu hương bộ Trần Hữu pháp danh Như Hữu xã Hiền Lương phụng cúng
tiền 5 đồng hiện đã giao
Chế Thị Liên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hịên đã giao
Nguyễn Lợi thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Dương Thị Tiếu xã Phú Cang phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Trương Thị Quyên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Lê Thị Chuyền pháp danh Tâm Luân xã Thanh Minh phụng cúng tiền 2 đồng hiện
đã giao
Nguyễn Thị Quèn xã Vinh Huề phụng cúng tiền 0 đồng ký chưa giao
Đặng Thị Đoá thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Văn Chữ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phan Liêm thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Nguyễn Úy thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Hồ Đốc thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Đại thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Đỗ Thị Tỏi thôn Tân Mỹ phụng cúng 2 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Chuột thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Diệp Nhân Cơ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Thừa lịnh chép thế lời thông cáo là đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự
ký.
7. Văn kiện ngày mồng chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 4 tờ đóng lại với hai tờ bìa trước sau màu gạch bằng chỉ giấy bổi. Khổ
15 x 28. Nội dung văn kiện xin quan huyện Vạn Ninh cho phép dựng lại chùa
Bảo Sơn dưới sự chứng minh của Bồ tát Quảng Đức, lúc đang làm trụ trì tổ
đình Linh Sơn. Đặc biệt là trang 2b có một bản dịch chữ quốc ngữ của văn
kiện viết bằng bút sắt, chúng tôi cũng cho in lại nguyên bản luôn, để làm
tài liệu tham khảo.
Chủ chùa chùa Bảo Sơn xã Phước Thủy tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh là
cựu hương mục Nguyễn Địch vái bẩm vì mong được ơn phê cho việc sau:
Xã của dân nguyên trước dấu cũ có cảnh chùa trải qua đã lâu. Vào khoảng
năm Thành Thái (1889-1906) chùa bị đổ sập (do còn có di tích là chiếc
trống trung một mặt) khiến cho vận làng suy vi, dân tình nghèo khổ, đến
nay đã trải qua nhiều năm.
Nay dân nhân có một sở ruộng đất trưng riêng (ruộng 1 mẫu, đất 4 mẫu) là 5
mẫu thuộc địa phận của bổn xã, tục gọi là xứ Rọc Mây, núi mây tịch mịch,
phong cảnh thanh tú. Vào năm Bảo Đại thứ 2 (1927) dân đã trình với bổn sư
đàn đầu hoà thượng hiệu Thiên Quang chùa Linh Sơn (xã Hiền Lương) chứng
minh, tha thiết xin dựng lại ngôi chùa ấy, thiết lập nên am tranh ở chỗ
đó, Ngài bèn cho hiệu Bảo Sơn, đốt hương thờ Phật. Nay đã 4 năm rồi, dân
tình đều được an khang đều cùng vui vẻ.
Nhưng từ đó đến nay chưa có xin phép. Nay dân thiết nghĩ trùng tu dựng
lại, tự xuất của nhà (do huê lợi của 5 mẫu ruộng đất chi dụng lấy tiền.
Dân nói rõ với lý hào bổn xã ký chứng nhận để dân được tiện lợi đến quan
xin. Vì thế, cúi xin quan (huyện đường) đại nhân các hạ rộng ban đường
nhân mong nhờ văn phê, để cho dân được nhận đức mà dựng lại chùa Phật.
Muôn lần nhờ vả. Nay xin vái.
Ngày mồng chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)(có đóng dấu Vạn Ninh huyện
ấn, và lời phê thính bằng -cho phép)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Phước Thủy)
Lý trưởng cửu phẩm Ngô Lực nhận ký (có đóng dấu xã Phước Thủy)
Nguyễn Địch (pháp danh Như Đương) thủ ký
Cựu hương bộ Trần Hữu thủ ký
Cựu hương kiểm Lê Chính thủ ký
Chánh hương bộ Lê Ký (có đóng dấu hương bộ xã Phước Thủy)
Hương kiểm Nguyễn Lều thủ ký
Hương lâm Trần Mít thủ ký
Viết thế để xin chứng: Trần Thỏa (người xã Hiền Lương) tự ký
Yết ma hòa thượng chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức làm chứng
minh tự ký
Cố vấn giáo thọ hòa thượng chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn hiệu Nhơn Thọ hộ
niệm ký
Thọ giáo hòa thượng chùa Long Phước hiệu Nhơn Viên chứng minh hộ niệm vi
tự ký
8. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1942)
Khổ 21 x 29, gồm 1 tờ giấy trắng A4 in từ bản khắc gỗ của chính bồ tát
Quảng Đức. Đây là một thơ gởi mời chư vị tôn túc và Phật tử tham dự lễ đón
bằng sắc tứ của chùa Linh Sơn.
Nam mô A Di Đà Phật
Phật lịch năm 2505
Mãng nghe Phật do tâm tạo, đạo dùng tăng hoằng. Nay có trú trì chùa cổ
tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh
Hoà hiệu Quảng Đức và giám tự Viên Giác cùng bổn đạo của bổn xã được ơn
hoàng thượng sắc tứ bổn chùa, chọn được buổi sáng ngày 16 tháng 7 để đánh
chuông cung nghinh sắc tứ, lại đón nghinh Bà miếu, vốn đã xin phép thiết
đại trai đàn nhằm từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 7, có đầy đủ thuyết pháp,
chẩn tế, trai tăng, tụng kinh, lục cúng, trên để báo ơn Phật tổ, tiếp nữa
là đáp lại ơn đức của giác linh cố hoà thượng. Kính mong các viên chức
cùng quý quyến ngày đó quang lâm để nghe kinh lễ Phật.
Trên đây là thiệp mời.(…….)
Quang lâm, lòng đạo tâm vui lành. (…) mong vậy
Ngày mồng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ
Yết ma hoà thượng chùa Linh Sơn cùng môn đồ bổn đạo đồng kính thỉnh
Bổn xã xã Hiền Lương đồng kính thỉnh.
9. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 2 năm Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 17 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 25.5. Trong đó
có 7 tờ, tức các tờ 7, 8, 13, 14, 15, 16 và 17 để trống, không viết chữ
nào. Mỗi tờ có 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến trang 8a có khuôn dấu
xã Hiền Lương đóng giáp lai. Còn những trang về sau dù để trống hay có chữ
đều không thấy có đóng dấu giáp lai. Chữ viết chủ yếu bằng bút lông mực
Tàu, nhưng có khi cũng viết bằng bút sắt mực xanh như ở tờ 10a8. Số tờ này
là do chúng tôi đếm, chứ bản thân văn kiện không có đánh số trang. Đây là
văn kiện quyên tiền để trùng tu chánh điện tổ đình Linh Sơn.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma chùa sắc tứ Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn
Ninh tỉnh Khánh Hòa hiệu Quảng Đức xin viết lời báo cáo việc sau:
Nay chánh điện chùa đã trải qua nhiều năm hư nát, bần tăng đau lòng xót
mắt, phát nguyện trùng tu dựng lại để thờ Phật cho trang nghiêm. Trộm nghĩ
bổn chùa không có tiền bạc của cải xuất ra, bèn nói rõ cho chư sơn thiền
đức và hội viên An Nam Phật học hội cùng bổn đạo Phật tử thiện nam tín nữ
rộng phát lòng từ, giúp cúng cây gỗ vật hạng ít nhiều, để sửa lại điện
Phật. Tôi cũng báo rõ cho hào lý sở tại chứng nhận sự thực có bao nhiêu
người hảo tâm giúp cúng tên tuổi ghi vào bản liệt kê dưới đây. Xin chúc
hiện tiền phước thọ tăng long, mất rồi cùng lên nước Phật. Vì thế, nay xin
có lời báo cáo
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo Đại 19 (1944)
Yết ma chùa sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Bổn xã điều đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng ban cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương ký
Hội viên cửu phẩm văn giai Trần Ứng Long
Cửu phẩm Lê Đê thủ ký
Miễn sai Trần Yến thủ ký
Sở tại lý trưởng Lê Như Đính ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch Trần Thương thủ ký
Hương mục Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Yết ma hoà thượng chùa Phụng Sơn Ninh Hoà hiệu Nhơn Sanh phụng cúng tiền
hộ niệm 10 đồng hiện đã giao
Thích Hưng Từ chùa Kim Long Ninh Hoà phụng cúng tiền 10 đồng
Giáo thọ chùa Thạch Sơn hiệu Nhơn Hoằng phụng cúng tiền 5 đồng
Trú trì chùa Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất cùng bổn đạo giúp cúng
tiền 50 đồng vái ký
Thích tử chùa Phổ Hóa Bình Thành hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm cúng tiền 50
đồng
Trú trì chùa Khánh Long Tuân Thừa hiệu Từ Vân phụng cúng tiền 10 đồng
My Phong Am hiệu Khánh Vỹ xã Nga My huyện Phổ Đức tỉnh Quảng Ngãi cúng
tiền 3 đồng hiện đã giao
Bổn đạo Quách Hữu Thiêm cùng thất trung Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn
phụng cúng tiền 30 đồng
Bổn đạo tín nữ Văn Thị Dược pháp danh Đồng O phụng cúng tiền 20 đồng
Lão nhiêu Nguyễn Văn Chung pháp danh Đồng Nguyện cùng gia quyến xã Phú Sơn
phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Nghi pháp danh Đồng O xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã
giao
Hội viên Phật học hội Ninh Hoà Hoàng Như Quan pháp danh Tâm Uyển phụng
cúng 10 đồng hiện đã giao
Hộ tự chùa Thiên Bữu Lao Thiện Chánh pháp danh Như Trung phụng cúng tiền
10 đồng
Võ Thị Lượng pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền dựng chánh điện
50 đồng hiện đã giao
Lại Văn Mô pháp danh Đồng Nhẫn và vợ Nguyễn Thị Nhàn pháp danh Đồng Phú xã
Văn Định phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Quyến pháp danh Đồng Thọ xã Mông Phú phụng cúng tiền dựng chùa
50 đồng hiện đã giao
Bành Thị Hoà pháp danh Đồng Cảm xã Vĩnh Phú phụng cúng tiền dựng chùa 15
đồng hiện đã giao
Ôn Sĩ Hoàng Nhật Quang pháp danh Đồng Nhật xã Minh Hương phụng cúng tiền
dựng chùa 10 đồng hiện dã giao
Đỗ Trọng Thành pháp danh Đồng Quả xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 5
đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Hiệu pháp danh Đồng Vọng xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 30
đồng hiện đã giao
Nguyên giáo sư Nguyễn Xuân Khoá pháp hiệu Từ Pháp xã Cung Hoà phụng cúng
tiền 3 đồng hiện đã giao
Phan Thị May pháp danh Đồng Đắc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 50 đồng
hiện đã giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Định pháp danh Đồng Quang xã Thạch Thành phụng
cúng tiền 20 đồng
Đặng Thị Bạng pháp danh Đồng Xúc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 30 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Trì pháp danh Như Thiện xã Thạch Thành phụng cúng tiền 10 đồng
Dương Thị Khuynh pháp danh Đồng Ứng xã Phước Lý phụng cúng tiền 4 đồng
hiện đã giao
Lục Ngọc Cẩn xã Minh Hương phụng cúng 10 đồng hiện đã giao
Nguyễn Chất pháp danh Đồng Trực cùng gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền
10 đồng hiện đã giao
Trần Thị Chước pháp danh Giác Hạnh tự Diệu Hoá tỉnh Quảng Ngãi phụng cúng
tiền 5 đồng hiện đã giao
Lại Văn Tụng và thất trung Phạm Thị Mực xã Văn Định phụng cúng tiền dựng
chùa 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Mẫn cùng con ruột Nguyễn Văn Đà xã Văn Định phụng cúng tiền 3
đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền 5 đồng hiện
đã giao
Bổn đạo Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long, Thẩm Thị Tròn pháp danh Như
Viên cùng cúng tiền 5 đồng
Chánh trưởng ban Lê Tấn Lực xã Cung Hoà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Phạm Thị Thứ xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Phó trưởng ban Lê Bút pháp danh Nguyên Quảng xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2
đồng hiện đã giao
Lý trưởng Lê Duy Thanh xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa chùa Long Thọ hiệu Bảo Giác phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Thiên Quang Phạm Thị Liên pháp danh Tâm Hoa tự Diệu Hương cúng
tiền 3 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Long Thọ Nguyễn Thị Chí pháp danh Nguyên Niệm cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Chánh trưởng ban Trần Lục pháp danh Đồng Sự xã Tuân Thừa cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Cựu lý trưởng Trần Cái pháp danh Đồng Bồn tự Thiện Lợi xã Tuân Thừa cúng
tiền 2 đồng hiện đã giao
Toạ chủ chùa Từ Bi hiệu là Thường Trân phụng cúng tiền 1 đồng
Trần Thị Lộc pháp danh Tâm Lịch xã Quang Vinh phụng cúng tiền 3 đồng hiện
đã giao
Cửu phẩm giáo sư Trần Dụ xã Quang Vinh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Trà Văn Tri pháp danh Đồng Ân xã Lạc Ninh phụng cúng tiền 3 đồng
Đổ Tất pháp danh Đồng Thiện cùng gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền 5
đồng hiện đã giao
Lê Minh pháp danh Đồng Nguyệt phụng cúng tiền 2 đồng
Lê Minh Hối pháp danh Đồng Ngộ xã Bá Hà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Nguyễn Văn Thật pháp danh Chúc Hạnh xã Tân Khê phụng cúng tiền 2 đồng hiện
đã giao
Huỳnh Thị Ích pháp danh Chúc tựu xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Sóc pháp danh Chúc Diệu xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
10. Văn kiện ngày 1 tháng 2 năm Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 8 tờ giấy đỏ đóng lại bằng chỉ bổi trắng có bìa trước và sau bằng giấy
trắng. Khổ 13.5 x 24.5. Trong đó chỉ 3 tờ đầu và tờ thứ 6 là có viết chữ,
còn 4 tờ kia trống chữ viết bằng bút lông mực Tàu, dễ đọc. Đây cũng là văn
kiện đi quyên tiền xây dựng chánh điện tổ đình Linh Sơn năm đến những
người Việt gốc Hoa.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma hoà thượng chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước
Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức, giám tự hiệu Viên
Giác và các bổn đạo nhằm xin có lời báo cáo việc sau:
Trộm nghĩ thuyền đạo vượt biển, gió mát thổi khắp thì bước lên bờ đạo để
đoàn viên; trăng tuệ sáng trời thuyền từ biển nam tỏ lòng thành mà ích
lợi. Vì bổn chùa tại xã Hiền Lương do nguyên cố hoà thượng Thiên Quang
dựng xây, trải qua năm tháng, cây gỗ hư nát rất nhiều. Nối gót mà bần tăng
trở về nhận ở, vâng việc trùng tu nhà cửa đông tây và cổng tam quan hiện
đã xong rồi. Chỉ một toà chánh điện chưa thể làm lại trùng tu chấn chỉnh.
Nhưng nghĩ lại bổn chùa có ít của cải đâu thể cán đán nhà lớn. Vì thế, bần
tăng lập tờ này báo rõ việc quý vị thương chủ cục và thiện tín hảo tâm của
Thanh bang hoặc phát lòng từ lớn giúp cúng tiền của, bố thí vật hạng để
trùng tu lại chánh điện của chùa. Được ơn rất lớn may mắn xiết bao, xin
ghi phương danh cúng vào đây, tức để ghi bảng lưu truyền tới chốn xa.(do
liệt quý vị tưởng niệm đến việc Phật mà cho của cải gì, bao nhiêu thì bần
tăng nghĩ tình ghi lên bảng ở chùa để đời đời lưu chiếu trước thì giúp cho
long thần hộ hựu, thứ nữa thì để tai mắt mọi người có thể thấy nghe)
Nay xin có lời báo cáo. Kính chúc gió trong trăng sáng núi Phổ Đà, hiện
tại sống thì nay thêm phước thọ. Giả như chết rồi thì an bài nhất định
dưới cửa Bắc sơn, nguyện về trời tây Cực lạc.
Nam mô A Di Đà Phật
Nay kính chúc
Thiện tín thanh bang lớn nhỏ chư liệt quý vị xét cho
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo Đại 19
Nhằm ngày tốt tháng thới năm Giáp Thân
Chùa sắc tứ Linh Sơn Thích hiệu Quảng Đức tự ký
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng ban chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Hội viên cửu phẩm văn giai Trần Ứng Long
Cửu phẩm Lê Đê thủ ký
Miễn sai Trần Yến thủ ký
Sở tại lý trưởng Lê Như Đính ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch tình thương thủ ký
Hương mục Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Lưu Chí Tường phụng cúng tiền dựng chùa 3 đồng hiện đã giao
Phương sanh đường phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng
Đồng Thái phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao.
11. Văn kiện ngày 8 tháng 12 năm Bảo Đại (1944)
Gồm 1 tờ giấy A4, chữ viết tay bằng quốc ngữ của Hội đồng hào mục làng
Hiền Lương thuận nhượng đất công hoang của làng cho tổ đình Linh Sơn để
làm nghĩa địa chùa theo yêu cầu của bồ tát Quảng Đức. Tờ thuận nhượng này
viết vào ngày 8 tháng 4 năm 1944, có chữ ký của lý trưởng xã Hiền Lương
cùng hội đồng hào mục làng ký tên và đóng dấu. Văn bản viết bằng chữ quốc
ngữ, nhưng lý trưởng lại ký bằng chữ Nho.
Tờ thuận nhượng đất công hoang
Chúng tôi là ban Hội đồng Hào mục làng Hiền lương, tổng Phước tường nội,
huyện Vạn ninh, tỉnh Khánh hoà,
Đồng ưng thuận nhượng đất công hoang như sau nầy:
Cứ theo lời tường của ngài Lâm Văn Tuất, Kiết ma Hoà thượng hiệu Quảng
Đức, trụ trì chùa Sắc tứ Linh Sơn rằng:
Nguyên cảnh chùa Linh Sơn hiện nay nội cuộc chánh điện, nhà đông, nhà tây,
Miếu bà, Tam quan và bảo tháp rộng chừng 2 mẫu, đã thành tụ nguy nga rồi,
nay ngài lại tường xin thêm đất công hoang chung quanh cảnh chùa, ước hơn
hai mẫu, tục danh là gò gia để làm nghĩa địa.
Đất ấy đông giáp đình làng, lại gần viên gia cửu phẩm Trần Ứng Long, viên
gia Nguyễn Trực và viên gia Trùm Mạnh;
Tây giáp công điền Đồng Bé lại gần đường xe lữa;
Nam giáp viên gia Nguyễn Địch, lấy 2 cây trụ cửa ngõ chùa làm giới hạn,
Bắc giáp sông.
Ngài tường xin khai phá làm nghĩa địa để ngày sau mai táng những người
thiện tín, Thích tử thiền môn khi lâm chung.
Còn tất cả người trong làng, ai có từ trần thì được mai táng nơi vạt đất
từ bảo tháp giọc đến Miếu bà, nhưng phải do chủ chùa chỉ định cho có trật
tự, không được tự tiện.
Cứ lời tường như vậy, làng chúng tôi xét lại chỗ đất ấy quả là một khoảnh
đất công hoang chứ không xâm phạm công tư điền thổ nào cả, nên làng chúng
tôi cũng đồng ưng thuận nhượng khoảnh đất công hoang ấy lại cho chùa Sắc
tứ Linh Sơn để làm nghĩa địa.
Nay thuận nhượng
Làm tại thôn Hiền Lương ngày 8 tháng 4 năm 1994
12. Văn kiện ngày 01 tháng 10 năm 1960
Gồm 2 tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, bên lề có dán 4 con niêm của
Việt Nam Cọng Hoà có đóng dấu, mỗi con giá 10 đồng. Nội dung là biên bản
khám xét ngày 01 tháng 10 năm 1960 của hội đồng khám xét gồm những người
đại diện chính quyền xã Ninh Đông và thôn Phước Thuận cùng cựu lý hào thân
sĩ, để giải quyết yêu cầu xin vi bằng ruộng đất chùa của tự trưởng chùa
Thiên Ân và thân hào thân sĩ thôn Phước Thuận. Biên bản này lập ra để
trình cho quận trưởng quận Ninh Hoà thẩm xét để giải quyết. Nguyên do của
yêu cầu cấp vi bằng này là vì “trong thời kỳ còn ổn định có đủ giấy tờ
thực trưng ba sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín hảo tâm, đều
giao cho ông Hoà thượng Lâm Văn Tuất chấp giữ. Đến năm 1948 chiến tranh,
ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ cũng bị mất, thất lạc không kiếm
tìm được”. Như vậy việc yêu cầu cấp vi bằng năm 1960 chắc chắn là có sự
tham mưu của bồ tát Quảng Đức cho vị đương nhiệm quản lý chùa Thiên Ân
thời đó là ông Lê Thành.
Tỉnh Khánh Hoà VIỆT NAM CỌNG HOÀ
Quận Ninh Hoà
Xã Ninh Đồng BIÊN BẢN NHẬN XÉT
Số: 688/ HC.ĐĐĐ.NĐ
Hôm nay là ngày 1 tháng 10 năm 1960 hồi 10 giờ.
Chúng tôi một hội đồng gồm có:
- Ông Đoàn Phiêu Đại diện xã Ninh Đông.
- Võ Xuân Sơn Hội viên kinh tế xã.
- Nguyễn Cương Ban nông vụ xã.
- Đặng Hơn Thôn trưởng Phước Thuận.
- Lê Thành tự trưởng chùa Thiên Ân, Phước Thuận.
- Bùi Du, Nguyễn Bá cựu lý thân hào, thân sĩ. Và 13 ông bàn cận ký tên sau
đây đều hội tại chùa Thiên Ân và quý thân hào thân sĩ thôn Phước Thiện, xã
Ninh-Đông, quận Ninh-hoà, tỉnh Khánh-hoà.
Chiếu đơn xin của quý ông trên đề ngày 10/9/1960 về việc xin vi bằng mất
cựu đơn khẩn ruộng đất của chùa Thiên ân, toạ lạc tại thôn Phước thuận xã
Ninh Đông quận Ninh-hoà tỉnh Khánh-hoà đã bị mất giấy tờ trong thời kỳ
chiến tranh.
Hội đồng chúng tôi đến tận nơi khám xét:
1.- là diện tích của 3 sở tư điền thổ của chùa Thiên ân là 47.988m2 thành
9 mẫu 6 sào 3 thước ta đều toạ lạc tại thôn Phước thuận diện tích và chi
tiết giới cận của 3 sở như sau:
SỞ THỨ NHẤT: do của ông Tổ khai sơn chùa Thiên ân là Bửu - Tịnh tậu mải và
ông Trương Quyền cúng hồi năm 1802, diện tích là 29.843 m2 thành 5 mẫu 9
sào 12 theo tam bộ kiến điền Phước thuận tại xứ đông cầu ké và cây trâm, 1
khoảnh từ đám số 215 đến 229 và số 337 (và số 291 thổ mộ)
- thổ hạng ba 4 mẫu 1 sào 8 thước.
- điền hạng ba 1 mẫu 5 sào 13 thước. Tục danh là ruộng chùa và giới cận
như sau:
- Đông cận tư thổ viên gia, Cao Bổ, tư điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương,
Đặng Bôn và Gò mả
- Tây cận sông Chò.
- Nam cận tư thổ viên gia, Nguyễn Đạt và Nguyễn Khao.
- Bắc cặn tư điền Nguyễn Cương, Cao Tuyển và tư thổ Nguyễn Quân.
SỞ THỨ HAI: do của bà Hào, bà Trộm cúng, diện tích là 12.810m2 thành 2 mẫu
5 sào 10 thước theo tam bộ kiến điền của thôn Phước thuận gồm có 14 đám
tại xứ đông cầu ké, từ đám số 327 đến số 340 tục danh là ruộng bà hào và
giới cận như sau thuộc tam hạng điền.
- Đông cận mương nước (mương chủ) Phước thuận.
- Tây cận tư điền Nguyễn Thị Mươi, tư thổ viên gia Ng-Chức.
- Nam cận công điền viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
- Bắc cận tư thổ viên gia Hồ Đình và tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn Thị
Chín.
SỞ THỨ BA: do của ông Trương Quyền bà Phạm Thị Quá cúng, diện tích là
5.355m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước theo tam bộ kiến điền của thôn Phước
thuận gồm có 15 đám từ số 24 đến số 38 thuộc tam hạng điền tại xứ đông
thiện điền, tục danh là ruộng tiên điền và giới cận như sau:
- Đông cận mương nước bến chai.
- Tây cận mương chủ Phước thuận
- Nam cận là công điền Phước Thuận.
- Bắc cận mương chủ và công điền Phước Thuận.
Đông tây tứ cận của ba sở tư điền thổ của chùa, Thiên Ân trên là đúng theo
đơn xin và sơ đồ không bị xâm chiếm công tư điền thổ của ai.
2. Diện tích của ba sở tư điền trên quả thật của chùa Thiên Ân
- một sở của ông Bửu Tịnh tạo lập hồi Gia Long thứ nhất (1802)
- một sở của bà Hào, bà cúng cho chùa có tạt bài vị thờ.
- một sở của vợ chồng ông Trương Quyền và bà Phạm Thị Quá cúng có tạt bài
vị để tại chùa trong lúc trước trong thời kỳ còn ổn định có đưa giấy tờ
thực trưng ba sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín hảo tâm, đều
giao cho ông hoà thượng LÂM VĂN TUẤT chấp giữ. Đến năm 1948 chiến tranh
ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ cũng bị mất thất lạc không kiếm
tìm được, cũng quả thật như đơn xin và chứng thật của ông thôn trưởng và
bàn cận nơi toạ lạc của sở tư điền thổ trong thời bị mất giấy tờ.
3. Việc mất giấy tờ vì lý do: chiến tranh nên giấy tờ bị thất lạc cũng quả
y như đơn xin và lời chứng của bàn cận.
Vậy hôm nay hội đồng khám xét chúng tôi lập biên bản này kính đệ trình lên
ông QUẬN TRƯỞNG QUẬN NINH HOÀ thẩm hành./.
Hội đồng khám xét ký tên:
Đại diện xã: Đại diện kinh tế: Ban nông vụ xã: Thôn trưởng Phước Thuận:
Đoàn Phiêu Võ Xuân Sơn Nguyễn Cương Đặng Hơn
Ký tên Ký tên Ký tên Ký tên
Hội đồng hào lão: Bàn cận ký chứng:
Bùi Du Nguyễn Bá Nguyễn Cương Nguyễn Chức
Ký tên Ký tên Ký tên Dấu tay
Lê Thành Nguyễn Khao Cao Tuyền
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thép Nguyễn Quận Nguyễn Dìn
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Chín Hồ Đinh Nguyễn Khiêm
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Mười Cao Bổ Nguyễn Đẹt.
Ký Ký tên Ký tên
13. Văn kiện ngày 09 tháng 2 năm 1961
Gồm tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ bên lề có dán 2 con niêm của
Việt Nam Cọng Hoà, giá mỗi con 10 đồng và có đóng dấu nội dung là chứng
chỉ vi bằng do quận trưởng quận Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà cấp cho ông tự
trưởng chùa Thiên Ân nhằm “giúp cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân đầu đơn
tại toà án để xin xác nhận quyền sở hữu của chùa, giúp cho việc điều tra
và xét xử của toà án được nhanh chóng dễ dàng và tạm thời cho ông tự
trưởng chùa Thiên Ân được hưởng hoa lợi các sở ruộng này cùng thọ nạp thuế
cho chánh phủ”.
TRUNG NGUYÊN TRUNG PHẦN VIỆT - NAM CỘNG - HÒA
Tỉnh Khánh hòa
Quận Ninh hòa CHỨNG CHỈ VI BẰNG
Số 990 HC/CCĐĐ
- Chiếu đơn ngày 10-9-60 của ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN tại thôn Phước
thuận xã Ninh Đông quận Ninh Hòa, xin chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế
trong thời kỳ chiến tranh cho 3 sở ruộng chùa tọa lạc tại thôn PHƯỚC
THUẬN, xã NINH ĐÔNG, quận NINH HÒA kê như sau:
1/- SỞ THỨ NHẤT: diện tích được 5 mẫu 9 sào 12 thước ta gần tứ cận như
sau:
Đông giáp viên gia Cao Bổ, tự điền Nguyễn chức, Nguyễn Cương, Đặng Bốn và
Gò mã.
Tây - Sông chò.
Nam - viên gia Nguyễn Đẹt, Nguyễn Khao.
Bắc - tư điền Nguyễn Cương, Cao Tuyền và Nguyễn Quân.
2/-SỞ THỨ NHÌ: diện tích được 2 mẫu 5 sào 10 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp: Mương nước Phước Thuận
Tây - tư điền Nguyễn Thị Mười, tư thổ Nguyễn Chức.
Nam - công điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc - tư thổ Hồ Định, tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
3/- SỞ THỨ BA: diện tích được 1 mẫu 0 sào 11 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp mương nước bến chài.
Tây - mương chủ Phước thuận.
Nam - công điền.
Bắc - mương chủ và công điền.
Chiếu biên bản điều tra và khám đất số 688-HC/CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của hội
đồng xã Ninh Đông xác nhận việc mất cựu văn khế nói trên của chùa Thiên
Aân là đúng sự thật và diện tích tứ cận y như trong biên bản có kèm theo
lược đồ của đương sự.
Chiếu thông cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn
hạn niêm yết mà không có người nào khiếu nại về các sở ruộng nói trên.
Nay cấp cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế
các sở ruộng nói trên để chấp chiếu.
Chứng chỉ này chỉ có giá trị về phương diện hành chánh, giúp cho ông TỰ
TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN đầu đơn tại tòa án để xin xác nhận quyền sở hữu của
chùa, giúp cho việc điều tra và xét xử của tòa án được nhanh chóng dễ dàng
và tạm thời cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN được hưởng hoa lợi các sở
ruộng này cùng thọ nạp thuế cho chánh phủ
NINH HÒA, ngày 9 tháng 2 năm 1961
QUẬN TRƯỞNG QUẬN NINH HÒA
Nơi nhận
Ông Tự Trưởng chùa THIÊN ÂN
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản khám đất
3 bản lược đồ để chấp chiếu TRẦN NGỌC NGHI
Ông đại diện hội đồng xã Ninh Đông (ký tên đóng dấu)
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản khám đất
3 bản lược đồ để lưu tại xã
Hồ sơ và lưu chiếu.
14. Văn kiện ngày 24 tháng 10 năm 1961
Gồm 1 tờ giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, có con niêm Việt Nam Cọng Hoà
đóng dấu, giá 20 đồng. Nội dung là phán quyết của toà án sơ thẩm Khánh Hoà
đối với quyền sở hữu bất động sản của chùa Thiên Ân đối với 9 mẫu 6 sào 3
thước điền thổ của mình, mà khế ước bị thất lạc trong thời gian chiến
tranh từ 1945 đến 1954. Số khế ước này của chùa Thiên Ân nguyên do bồ tát
Quảng Đức chấp giữ. Sau đó, do điều kiện khách quan cho phép, thầy Giác
Huệ cùng với giáo hội tăng già tỉnh Khánh Hoà đã đứng ra xin quyền sở hữu
vừa nói.
TRÍCH LỤC BẢN CHÍNH ĐỂ TẠI PHÒNG LỤC SƯ TÒA SƠ THẨM KHÁNH HÒA
Ngày 24-10-1961 VIỆT- NAM CỘNG - HÒA
Án hộ số 250/ DS NHÂN DANH QUỐC DÂN VIỆT NAM
==== ----
Án xác nhận Tòa sơ thẩm Khánh Hòa khán định về án ông
quyền sở hữu bất động sản. NGUYỄN HỮU THỨ ngồi ghế công tố viên và
Vụ số 586/ 61 ông NGUYỄN HỮU CHẤN ngồi ghế lục sự đã
----- nhóm lại ngày 24 tháng 10 năm 1961 trong phiên
Có mặt xử các ông: xử công khai tại Pháp đình công đường tòa sơ
NGUYỄN TOẠI: Chánh án thẩm Khánh Hòa và đã tuyên án như sau:
NGUYỄN HỮU THỨ: Biện lý BẢN ÁN
NGUYỄN HỮU CHẤN: lục sự TÒA ÁN
Chiếu đơn đề ngày 30-9-1961 của THÍCH HẠNH HẢI tục danh Phan Cẩm Long,
chánh trị sự trưởng giáo hội tăng già Khánh hòa và đại diện tăng già quận
Ninh hòa trình bày rằng chùa Thiên Ân ở thôn Phước Thuận, xã Ninh Đông,
quận Ninh Hòa có ba sở tư điền thổ tọa lạc tại thôn Phước Thuận là:
- Sở thứ nhất: diện tichs 29.843m2 tức 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương
Quyên cúng cho chùa hồi năm 1802
- Sở thứ hai: diện tích 12. 810 m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà
Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị Trộm lập hậu điền.
- sở thứ ba: diện tích 5.355 m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên
và Phạm Thị Quá cúng cho chùa.
Ba sở tư điền thổ này thật của tư hữu của chùa Thiên Ân có lớp trú trì kế
thế cùng thuộc quyền của tăng sĩ. Đến năm 1945 trong thời chiến tranh, trụ
trì đương thời chùa Thiên Ân là hòa thượng Thích Quảng Đức lánh nạn văn
khố bị thất lạc, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1960 Lê Thành hiệu là Giác
Huệ về làm tự trưởng trùng tu lại chùa và quản trị các điền thổ đã xin vi
bằng chứng chỉ thất lạc văn khế tại quận Ninh hòa. Đến nay Lê Thành già
yếu nên đem giao lại cho giáo hội tăng già quận Ninh hòa nên giáo hội cử
nguyên đơn đứng đơn xin tòa công nhận quyền sở hữu về ba sở điền thổ nói
trên.
Chiếu biên bản điều tra và khám đất số 688-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của
hội đồng xã Ninh đông xác nhận việc mất văn khế về các tư điền thổ nói
trên của chùa Thiên Ân
Chiếu thông cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn
hạn niêm yết mà không có ai khiếu nại về các bất động sản nói trên.
Chiếu chứng chỉ vi bằng ngày 9-2-61 của quận trưởng Ninh Hòa.
Chiếu tài liệu hồ sơ thì có đủ bằng chứng là những bất động sản nói trên
thuộc quyền sở hữu của chùa Thiên Ân.
VÌ NHỮNG LẼ ẤY
Xử công khai, theo đơn thỉnh cầu, sơ thẩm về dân sự.
Xác nhận rằng những tư điền thổ sau đây tọa lạc tại thôn Phước thuận, xã
Ninh Đông quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa là thuộc quyền sở hữu của chùa
Thiên Aân ở thôn Phước Thuận:
SỞ THỨ NHẤT: diện tích 29.843m2 thành 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương Quyên
cúng vào chùa năm 1802.
Đông cận: tự thổ viên gai Cao Bổ, tự điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương, Dạng
Bốn và Gò mả
Tây cận: sông chò
Nam Cận: tự thổ viên gia Nguyễn Dẹt và Nguyễn Khao
Bắc cận: tự điền Nguyễn Chương, Cao Tuyên và tự thổ Nguyễn Quận.
SỞ THỨ HAI: diện tích 12. 810 m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà
Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị Trộm lập hậu điền.
Đông cận: Mương nước Phước Thuận
Tây cận: Tư điền Nguyễn Thị Mười, tư thổ viên gia Nguyễn Chức.
Nam cận: Công điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc cận: Tư thổ viên gia Hồ Định, tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
SỞ THỨ BA: diện tích 5.355 m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên
và Phạm Thị Quá cúng cho chùa.
Đông cận: Mương nước bến chài.
Tây cận: Mương chủ Phước thuận.
Nam Cận: Công điền Phước thuận.
Bắc cận: mương chủ và công điền Phước thuận.
Đễ nguyên đơn chịu án phí.
Đã lập phán định và đã tuyên tại ngày tháng năm kể trên tại Pháp đình công
đường tòa sơ thẩm Khánh Hòa.
Ký tên: NGUYỄN TOẠI NGUYỄN HỮU CHẤNH
Trước bạ tại Nha Trang, ngày 6 tháng 12 năm 1961
TA HUYNH
SAO Y CHÍNH BẢN
Bản sao cấp cho THICH HANH HAI theo lời yêu cầu
Nha Trang, ngày 21 tháng 12 năm 1961
CHÁNH LỤC SƯ
LƯƠNG TƯ PHẤN
(đọc tiếp chương II) |