CON CHÓ NGHĨA TÌNH
@Người Xứ Vạn
Tôi cũng không nhớ rõ là ông già tôi đã nuôi con chó Xù con từ
lúc nào. Chỉ biết mang máng là ông đã xin nó về nuôi từ lúc mới
đẻ, báu vật của một ông bạn già ở xa nhà tôi khoảng năm cây số
đường rừng. Vậy mà ông bạn cố tri ấy đành cắt khúc ruột của mình
ra tặng cho ông già tôi ngay từ thuở nó mới lọt lòng, lúc nó còn
chưa mở mắt. Thế đủ biết cái tình bạn nhậu giữa hai ông già thâm
sâu, thắm thiết biết là dường nào.
Đúng là “bợm nhậu” nói theo kiểu giang hồ. Ông già tôi quả là
một dân “nhậu” khét tiếng từ thành đến tỉnh. Nếu không nổi danh
như vậy thì ông đã không đến nổi “bán vợ đợ con” để về chui rúc
dưới mái tranh xập xệ này. Tiếng là nhà tranh vách đất nhưng
trông chẳng khác nào cái chòi nhỏ. Mái tranh cũ rạt không che
kín đủ gian nhà nhỏ bên trong, lúc nào cũng như chờ đợi những
cơn mưa dột ướt cả người vì không tránh né đâu được hết. Còn cái
tình cảm giữa ông bà già tôi mới thật là éo le. Chính vì ông già
tôi là một “bợm nhậu” khét tiếng nhất vùng nên bà già tôi không
thể nào chịu được cái cuộc tình giẫy chết này nữa. Bà đành một
mình cự tuyệt ông già và lặng lẽ dắt hai đứa con thơ (trong đó
có tôi) kéo nhau về cắm dùi ở cái thôn Quảng Phước xa xôi hẻo
lánh để làm lại cuộc đời. Vậy mà không đầy một năm sau, ông cũng
tìm ra được tông tích của ba mẹ con rồi cũng rút binh về theo.
Tuy nhiên cái tình mặn nồng ngày xưa không còn nữa.
Cái nhà là của bà già tôi mua nên trên nguyên tắc ông già không
có quyền ở chung. Túng quá ông phải tự chế lấy một cái chái nhỏ
có tấm nhựa căng lên che đỡ mưa nắng, núp dưới bóng cây xoài to,
sát bên bờ giếng làm chỗ trú ẩn quanh năm, coi như tạm cắm dùi
chung trên cùng mảnh đất, ở ngay sau cái chòi mẹ con tôi ở. Hai
người như hai cái tai của cái cối xay, người ở đằng trước thì kẻ
ra đằng sau, người ở đằng sau thì kẻ ra đằng trước, người ở
trong nhà thì kẻ phải ở ngoài hoặc ngược lại. Cũng chính vì cái
nỗi buồn đơn độc này mà ông già tôi phải tìm cách nuôi một con
chó làm bạn. Thoạt đầu ai nấy đều lắc đầu bởi ông già tôi ngoài
cái chuyện nhậu nhẹt trứ danh, ông còn là một tay nhậu thịt cầy
nổi tiếng nên không ai tin tưởng vào lòng tốt của ông một khi
con chó bắt đầu lớn. Ấy vậy mà “mối tình thủy chung” này lại kéo
dài đến suốt cuộc đời của hai “người” còn hơn là cuộc tình to
lớn của ông với bà già tôi. Con chó Xù hiện diện trong nhà tôi
từ ngày ấy bắt nguồn từ mối tình lục đục của hai người đã vẽ
thêm vào ký ức tôi những trang kỷ niệm bi tráng, sinh động.
Con chó Xù! Đúng cái tên của nó là như vậy, không ai thêm bớt gì
được nữa. Bởi lẽ mình nó trắng như tuyết, lông mượt mà xù ra như
tảng bông. Cái mặt ốc tiêu thu lu trong đám lông dày cộm khiến
không ai thấy rõ đôi mắt tinh anh với cái mũi nó đâu. Cái đuôi
rậm rạp như cái chổi lúc nào cũng khoe khuẩy một cách sống động
để khỏi ai nghĩ nó chỉ là một con chó nhồi bông. Có điều lạ là ở
cái thôn Xuân Tự nơi nó được sinh ra, chẳng có con chó nào đáng
gọi là cha nó. Nó là con chó độc đáo nhất ở đây, mang đầy nét
của giống chó Tây mặc dù thôn Xuân Tự chỉ rặt có một đám chó
làng nhà ta.
Từ hôm ông già tôi âu yếm ôm con Xù về nuôi đã gây ra một bầu
không khí chộn rộn trong gia đình không ít. Mẹ tôi vốn có tính
không ưa chó mèo nên khi thấy vậy bèn“quát” cho một câu chí tử “Cơm không có mà ăn còn đem chi cái
ngữ ấy về nuôi, giỏi lắm được năm ba bữa nửa tháng là vô bụng”.
Bà thường nói trổng từ trong nhà vọng ra cốt cho ông già tôi
nghe cho bỏ tức chớ không bao giờ bà nói thẳng bởi lẽ cuộc tình
đã chấm dứt từ lâu. Riêng anh em tụi tôi thì đặt nhiều dấu hỏi
to tướng là không biết con Xù con sẽ ăn uống ra làm sao khi con
mắt còn nhắm rít. Việc ông đem con chó con về nuôi như thế này
quả là một việc làm hấp tấp một cách kỳ lạ. Chính ông cũng loay
hoay không biết phải xoay xở ra sao với việc ăn uống của nó.
Cơn lo lắng của ông già với nỗi thách đố của bà già tôi kéo dài
đến mấy ngày trời thì đột nhiên bữa nọ, mới sáng tinh sương, cả
nhà bỗng thấy con chó mẹ không biết từ đâu lòi ra với bộ lông
đen ngòm của giống chó mực nhà ta đang nằm xoải mình ra bên cạnh
gốc xoài, thò mấy cái vú dài ra cho con Xù con bú. Thế là vấn
nạn trước mắt được giải quyết ngay tức khắc nhưng sau đó ai nấy
đều cảm thấy có một cái gì bất ổn!
Không bất ổn sao được khi cả nhà tôi từ ông già cho đến mẹ tôi
đều tỏ vẻ lo lắng một điều gì đó thật nghiêm trọng. Ngạc nhiên
đầu tiên là không biết tại sao với hơn năm cây số đường rừng từ
Xuân Tự thôn cho đến Quảng Phước phải băng qua ngọn Phổ Đà dày
đặc cây rừng, không ai một lần chỉ đường cho con chó mẹ đi mà nó
tìm ra được căn nhà nơi đứa con xinh đẹp nhất của nó bị “bắt
cóc” tạm trú. Chẳng lẽ nó đánh hơi mũi tài tình đến như thế hay
nó có giác quan thứ sáu? Nỗi lo lắng kế tiếp là nó còn cả một
đám con thơ tới bốn, năm đứa ở lại thôn kia với người chủ cũ mà
nó phải có bổn phận nuôi nấng, trách nhiệm còn nặng nề hơn mà
phải vượt đèo, lội suối, băng rừng mỗi sáng cả đi lẫn về để cho
con Xù con bú, thử hỏi sức người cũng phải tiêu dênh huống hồ là
súc vật. Thế mới biết cái tình mẫu tử dù ở con vật cũng thật là
thâm sâu.
Nhưng một vấn đề nghiêm trọng hơn ảnh hưởng ngay đến tính mạng
của con chó mẹ là không thiếu gì thú dữ lảng vảng ở vùng núi Phổ
Đà, lúc nào cũng sẵn sàng tóm
cổ nó. Thật là một cơn ác mộng! Hẳn nó không biết chuyện nhiều
dân làng đi hái củi đã bị cọp ăn thịt trên ngọn núi hoang dã
này. Bài toán xem ra ngày càng rắc rối. Hai anh em tôi chỉ biết
đưa mắt lấm lét nhìn nhau chớ chẳng biết làm gì. Cho đến một
sáng nọ, tôi thấy trên mình con chó mẹ lẫn mặt mày của nó đầy
những vết thương rỉ máu, vẫn nằm êm ả cho con bú, tuy trên ngực
đang cố thở phập phồng với ngàn cơn đau xé buốt. Cha tôi phải
nhai lá cây và rắc thuốc bột đắp vào vết thương cho nó đỡ lành.
Sau đó nó chạy ngược về thôn trong và từ đó, những buổi sáng hôm
sau, anh em tôi mon men ra gốc xoài tìm kỷ niệm xưa nhưng không
bao giờ còn thấy bóng dáng con chó mẹ đâu nữa. Người chủ cũ ở
thôn trong cũng cho hay là nó đã biệt vô âm tín, chẳng còn thấy
nó về lại mái nhà xưa! Chúng tôi biết nó đã thật sự gặp chuyện
chẳng lành đâu đó trên góc rừng Phổ Đà thuộc dãy Trường sơn.
Con Xù con bây giờ lâm vào cảnh mồ côi. Nhà nghèo nên đụng gì ăn
nấy. Tuy vậy nó cũng lớn lên và trông “đẹp trai” ra. Ông già tôi
cưng nó còn hơn cả hai đứa tôi bởi lẽ trong những đêm ông say
sưa chỉ có nó làm bầu bạn. Nó quấn quít bên ông như hai cha con,
còn tụi tôi phải ngủ với mẹ vì không chịu nổi cái mùi rượu đế
nồng nặc đến chết người. Vả lại cũng để tránh cái cảnh ông nổi
khùng lên đêm hôm vào nhà quật tụi tôi đến nhừ xương ra vì cái
tội không đi mua rượu khi con ma men rượu bắt đầu gặm nhắm từng
thớ thịt của ông. Ác hại thay một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày
thì ông say đến hết một nửa, bữa say bữa tỉnh khiến ba mẹ con
phải ra bờ rào trải chiếu ngủ hết một trăm tám mươi ba ngày mặc
cho gió sương, mưa bão hoặc rắn rít, bò cạp đêm hôm có bò tới
làm thịt cũng đành chịu. Khốn khổ của kiếp nghèo là như vậy!
Vào năm Hợi, ruộng lúa tự nhiên bị mất mùa, dân làng chẳng ai
gặt hái được gì nhiều nên cái nghề sửa xe đạp trong làng của ông
già tôi cũng sa sút theo, ít ai còn muốn sửa xe đổi lúa nữa. Ông
già tôi phải chịu đựng bữa đói bữa no, có lúc ăn cháo thay cơm,
có lúc ăn rau thay cháo, có ngày lắm khi chỉ có một bữa ăn, có
khi uống rượu trừ bữa, cuộc đời của con Xù cũng thăng trầm theo
cái vận mạt của gia đình, cũng bữa đói bữa no như chủ nhưng
không bao giờ thấy nó thở than, tru tréo. Ngược lại ông già tôi
dù đói cách mấy vẫn không có ý nghĩ làm thịt con Xù mặc dù nó đã
lên hai tuổi và dư đủ cho ông già tôi có một tuần xẻ thịt nhắm
rượu. Thấy cái cảnh ông ngủ chung và thường ôm nó vào lòng vuốt
ve, đủ để biết cái tình thương ông trang trải cho nó biết là
dường nào, có khi ông còn nhịn đói chừa cơm cho nó ăn nữa là
khác!
Cái cảnh đầm ấm giả tạo giữa vật và người này kéo dài hơn hai
năm. Một bữa nọ có một nhà sư ở chùa Quảng Phước cách nhà tôi
nửa cây số quá bộ đến thăm gia đình, thấy con chó Xù đẹp đẽ thế
kia mà lại gầy còm, ốm yếu bèn đem lòng trắc ẩn muốn xin con chó
về nuôi. Ngài cũng không quên tặng cho ông già tôi một giạ lúa
để đền công nuôi dưỡng. Sau đó ngài bắt con Xù về nuôi giữa cảnh
chùa thanh tịch, cô liêu nhưng đầy ắp tình thương cũng như được
chăm sóc cơm nước no đủ mỗi
ngày. Tôi nghĩ con Xù thế nào cũng được hưởng một cuộc sống hạnh
phúc từ nay.
Kể từ khi con Xù bị đổi chủ thì ông già tôi lại đâm ra mắc bệnh
“tương tư“. Không phải ông tương tư “người đẹp” nào trong làng
để thay mẹ tôi vì chẳng ai thèm để ý đến ông già say, mà thật ra
là ông tương tư con chó. Ông nhớ thương nó da diết như người ta
thương nhớ một người yêu, mặc dù quanh ông còn có hai anh em tôi
quấn quít hàng ngày nhưng ông vẫn cảm thấy hết sức cô đơn. Cái
tấm bạc che mưa nắng đã phai màu bây giờ chỉ còn che đủ một mình
ông, nhiều chỗ đã bị rách lổ rổ, mục nát, cũ mèm đáng để quăng
vào sọt rác nhưng đối với ông vẫn còn hữu dụng. Ông chẳng phải
là một nhà tu nhưng y hệt một nhà tu, thường ngồi xếp bằng trông
như thiền đến nổi tụi tôi không dám đến gần quấy phá, đùa
nghịch, sợ bị ông đánh đòn. Có khi thấy ông khóc một mình, không
biết vì ông nghĩ ngợi cái tình cảnh dở khóc dở cười của gia đình
hay vì ông quá tương tư con chó. Nhưng tôi nghĩ chắc ông tương
tư con Xù vì nhiều lần tôi thường nghe ông nói “Phải chi tao còn
con Xù, tao sẽ đỡ buồn hơn”. Từ đó ông sinh ra cái tật đi câu cá
để giải sầu. Mỗi lần ông xách cái cần với cái giỏ đi câu là tự
nhiên ông thơ thới hân hoan mặc dù có lúc về với cái giỏ không.
Tụi tôi ban đầu lấy làm lạ nhưng sau đó hỏi ra mới biết ông đã
gặp được con Xù.
Số là con Xù từ ngày về ở với nhà sư, nó quen với cảnh chùa nên
không bao giờ về lại nhà tôi nữa. Ông già tôi thương nhớ con Xù
nên tìm cách đi câu bên dòng sông Hiền (lương) ngoằn ngoèo ở
phía sau chùa để có cớ nhìn mặt được con Xù. Thoạt đầu con Xù
chưa nhận ra được chủ cũ vì xa cách đến hơn cả năm, sau đó linh
tính nó biết được người thân nên thường theo ông già tôi ra bờ
sông mỗi khi ông câu cá. Con Xù quyến luyến chủ cũ nên quấn quít
bên ông già tôi suốt buổi chiều. Nó hôn, nó liếm, nó nhảy phóc
vào lòng ông già như đứa bé con tìm vú mẹ. Thế là ông già tôi tự
nhiên tìm lại được niềm hạnh phúc. Ban đầu, mỗi lần đi câu ông
thường về nhà sớm nhưng về sau ông ở lại câu khuya hơn, nhất là
những đêm trăng thanh gió mát, với bầu rượu bên cạnh và con chó
cưng, ông thấy đời không còn gì đẹp bằng. Ngồi thỉnh thoảng móc
mồi câu, quăng cái tủm xuống nước, đàn cá đua nhau giựt giựt cái
phao, lúc nổi lúc chìm, con Xù phụ họa nhảy lởn vởn, sủa cá sủa
trăng, trông cả hai chẳng khác nào đôi bạn thân tình nhất.
Lúc đầu con Xù còn sợ nhà sư nên chỉ tìm cách trốn ra bờ sông
mỗi chiều rồi lại trở về chùa. Sau đó nó bạo gan hơn, mon men
theo ông già tôi về đến tận nhà, chơi qua loa với tụi tôi chừng
nửa tiếng đồng hồ rồi lui bước, để lại nỗi vui mừng hụt nơi anh
em tôi. Mấy ngày sau đó nó bất kể nhà sư với cơm lành canh ngọt
ở chùa, quyết tâm về nhà tôi ở luôn. Báo hại nhà sư phải mỏi mắt
đi tìm mới gặp nó. Nhìn thấy nhà sư, người chủ mới, nó có vẻ
thẹn thùng cúi gầm mặt xuống, chẳng tỏ vẻ gì mừng rỡ cả. Về sau
ông già tôi thấy áy náy vì một giạ lúa lỡ đã nhận trước đây nên
đành phải mang con Xù trả lại chùa. Nhà sư cũng vui vẻ nhận
nhưng mấy chú tiểu ở chùa muốn cho chắc ăn nên lần này xích con
Xù lại để nằm canh chừng ở một góc bếp, sát bên cây thị quanh
năm nở hoa trái vàng óng thơm lừng.
Bẵng đi hơn năm năm, con Xù không còn bao giờ trở về thăm lại
chúng tôi nữa. Có thể vì ông già tôi ngày càng già không muốn đi
câu xa ở bờ sông cũ nên không còn dịp gặp nó. Có thể vì đời sống
giam lỏng nơi cảnh chùa u tịch nên nó chẳng thể nào về, có thể
vì nó biết thân phận nó nay là của chùa nên thà đừng làm phiền
ai càng hay, cũng có thể nó đã già và chết rồi không chừng.
Riêng anh em tôi bây giờ đã lớn, tôi đi học xa, em tôi đi lính,
mỗi đứa đi làm ăn một phương, ít có dịp về lại quê xưa chỉ trừ
khi Tết nhất đến, nên cũng chẳng để ý gì chuyện con chó Xù nữa.
Một trang tình sử tưởng đến đây đã hết, nào ngờ…
Xuân năm Ngọ, đúng mồng một Tết, trong lúc anh em tôi đang quây
quần trong nhà đón Xuân lúc đất trời vừa ửng nắng mai, bỗng
nhiên con Xù già từ đâu tung cổng vườn khép kín đi vào ngoe
nguẩy đuôi mừng rỡ. Vẫn bộ lông mềm mại tựa như bông nhưng không
dấu nổi màu sắc tàn phai vì mưa nắng. Gương mặt con Xù tuy vẫn
còn khuất trong đám lông rậm rịt nhưng vẫn không che kín được
lớp da nhăn, nhất là ánh mắt không còn tinh anh như ngày trước
nữa. Ông già kể cả bà già tôi bảo nó xông cửa đầu năm chắc là
may mắn. Cả nhà ai nấy cũng đều ngạc nhiên vì không ngờ nó lại
chọn đúng ngày mồng một Tết mà về sau hơn năm năm xa vắng. Có
điều con Xù bây giờ đã già trông không còn giống con Xù ngày xưa
nữa. Tôi ôm con Xù già vào lòng vuốt ve, và qua nó, biết được
cuộc đời đã đổi thay nhiều lắm. Nó ở nhà tôi chơi hết một ngày
Xuân rồi lại trở về chùa suốt năm ở đó.
Xuân sau năm Mùi, anh em tôi bị kẹt ở miền xa không có dịp về
thăm nhà nữa. Mẹ tôi có cho hay mồng một Tết, con Xù lại xông
cửa về thăm chủ cũ lần nữa. Tôi thấy lòng bâng quơ rung động, tự
nghĩ như con Xù có mối liên hệ tiền kiếp nào với gia đình tôi,
sao không nó cứ đợi đến ngày mồng một Tết lại về? Ông già tôi
ngày càng già, bệnh tật liên miên vì chứng xơ gan do rượu hoành
hành. Không có ai hầu hạ giúp đỡ nên lúc nào cũng tưởng nhớ đến
con Xù – con thú già bí ẩn, mỗi năm chỉ gặp mặt nó có một lần
vào ngày Tết.
Cho đến năm sau - Tết Mậu Thân thôn làng trong cơn binh biến, Mẹ
tôi cho hay con Xù già cũng đã trở về và bị đạn lạc nằm chết sau
gốc cây xoài cằn cỗi, cạnh cái chái của ông già tôi khi cả làng
đi di tản xuống Cồn hoặc ra Giả. Y như mọi năm, có lẽ con Xù già
tung cửa trở về giữa sáng mồng một Tết để đón mừng Xuân vui,
nhưng bị lạc đạn nằm chết ở đó. Mấy năm sau, ông già tôi buồn
quá cũng theo nó về luôn chốn suối vàng! Anh em tôi mồ côi cha
kể từ dạo đó.
Cứ mỗi mùa Xuân lạnh lẽo trôi qua nơi xứ lạ quê người, tôi lại
nhớ đến chuyện con Xù. Mỗi lần nghĩ tới nó, tôi cảm thấy hổ thẹn
một cách kỳ lạ. Nó còn có cơ hội về lại mái nhà xưa để nằm chết
ở đó. Còn tôi, liệu biết đến bao giờ!???
@ Người Xứ Vạn
|