ht-thich-thanh-an-bnr

Hoà Thượng Thích Thanh An

cáo phó

chương trình

Cung Thỉnh

TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THANH AN
VIỆN CHỦ AN TƯỜNG TỰ VIỆN


I. Thân thế:
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Nho sanh ngày mồng một tháng giêng năm Đinh Sửu (1937) tại Làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Con Ông Nguyễn Văn Hường, pháp danh Như Danh và Bà Đỗ Thị Tha, pháp danh Thị Lợi. Cả hai ông bà đều thâm tín Tam bảo nên sớm ảnh hưởng đời sống đạo người con thứ sáu này trong gia đình có 8 người con, gồm 4 trai 4 gái. Thân mẫu Ngài là người đàn bà Việt Nam hiền lương, chất phác và thuần thành niệm Phật nên được thoại ứng trong việc "dự tri thời chí" (biết trước ngày chết) của mình thật vô cùng hy hữu mầu nhiệm.

II. Xuất gia tu học:
Sanh trong gia đình nhiều đời thâm tín Phật Giáo, ảnh hưởng ông nội chú ruột là Hòa Thượng Thích Phước Trí có uy tín trong vùng hay nhờ túc duyên sẵn có, đang độ tuổi thanh xuân, Ngài dứt khoát dũng mãnh phát tâm xuất gia theo chí nguyện:

Cát ái từ sở thân
Xuất gia hoằng chánh đạo
Thế độ nhất thiết nhân

Ngày 8 tháng 2 năm 1958, Ngài đến Chùa Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn Non Nước – Đà Nẵng xin Ngài Hương Sơn tức Hòa Thượng thượng Trí hạ Hữu xuất gia tu học. Thấy sự thiết tha cầu đạo Hòa Thượng hoan hỷ chấp thuận và làm lễ thế phát vào dịp lễ Đức Quán Thế Âm 19/2 âm lịch ?(tháng 3 năm 1958) với pháp danh Đồng Đạt. Từ đó, Ngài dốc tâm tu tập, học kinh kệ và tinh tấn trong mọi công việc Chùa, việc chúng nên được thầy thương bạn mến.

Ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 1958 được thọ giới Sa Di với pháp tự Thông Đạt. Từ khi được thọ giới Sa Di, Ngài càng tinh tấn nhiều hơn trong việc tu học. Lúc tại tổ đình Linh Ứng lớp chúng độ 17, 18 tăng sinh do Ngài Hòa Thượng bổn sư Trí Hữu trực tiếp chăm sóc giảng dạy các kinh luật như Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách. Sau gần hai năm dưới sự dìu dắt cua bổn sư, các huynh đệ lần lượt xin thầy đi cầu phương xa. Do vậy Ngài đảnh lễ Bổn sư xin xuất chúng tha phương cầu học.

  • Năm 1960, Ngài vào chùa Linh Sơn - Xã Vạn Lương – Quận Vạn Ninh – Tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang xin Hòa Thượng thương Tịch hạ Tràng làm bổn sư y chỉ. Được Hòa Thượng hứa khả cho nhập chúng tu học, Ngài rất tinh tấn và mỗi ngày thọ trì công phu bài sám Hồng Danh càng mien mật hơn. Cũng trong thời gian này Ngài phát nguyện tịnh tu 5 năm.
  • Năm 1963 Ngài được Hoà thượng Bổn sư y chỉ cho thọ Cụ túc giới tại Đại Giới Đàn Giác Nguyên – Quận Tư Sài Gòn do Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Chánh chủ đàn và "Đàn Đầu Hòa Thượng là Hoà thượng thượng Niết hạ Bàn. Sau đó được Hoà thượng bổn sư Tịch Tràng ban cho Pháp hiệu là Thanh An.

III. Quyết chí hành trì pháp tu Tịnh Độ, lạy Phật:
Noi theo hạnh tu của bổn sư y chỉ, Ngài trì tụng kinh, lạy Hồng Danh chư Phật và chuyên trì tụng Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Đây là thời gian có nhiều thử thách trong công phu tu tập đối với một hành giả khổ công luyện tập nội lực thâm hậu. - Năm 1961 nhân kỳ an cư kiết đông 3 tháng xong, Hòa Thượng phát nguyện Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Vì nhận thấy sự diệu dụng cảm ứng cảu phẩm kinh nên Ngài xin phép Hòa Thượng y chỉ chích huyết viết Kinh, Hòa Thượng bảo:

- "Phát nguyện chép Kinh không ai cản nhưng phải quyết tâm thực hành cho được tín nguyện".

- "Con đã sẵn sàng phát tâm tín nguyện, xin Hòa Thượng cho con quyết định thực hành!" Thầy trả lời. Được sự cổ vũ của bổn sư, Ngài thực hiện ngay tâm nguyện chép Kinh từ ngày 14 tháng 12 đến ngày 24 tháng 12 năm Tân Sửu (1961) suốt 10 ngày đêm tả Kinh mới xong gồm có 5.684 chữ.

  • Năm 1966, Ngài phát nguyện đốt ngón tay út bàn tay trái trong khi tụng xong ba cuốn chót 5, 6 và 7 bộ Kinh Pháp Hoa, để vừa hồi hướng hoàn kinh và ra thất. Cũng trong năm này Ngài phát nguyện chích máu chép Kinh A Di Đà.
  • Năm 1972: tạo dựng tượng đài Quán Âm lộ thiên cao 11 mét trên hòn giả sơn, trước Chùa Mỹ Khê – Sơn Trà – Đà Nẵng. Nhưng vì tình hình đất nước thay đổi năm 1975, việc xây dựng bị đình đốn chờ hội đủ nhân duyên tiếp tục hoàn thành.
  • Năm 1975: phát nguyện tu khổ hạnh tại nơi núi Hòn Chảo, Vạn Giả - Khánh Hòa trong 2 năm. Vì sơn lâm chướng khí sanh bệnh hoạn, cũng nhờ vị thọ thần mach bảo chỉ dẫn Ngài phải xuống núi lo điều trị chứng đau bao tử đang tới hồi nguy kịch. Nhờ đủ phước duyên, sau một thời gian tự điều trị bằng phương pháp gia truyền nên sức khỏe hồi phục.
    Vào đầu năm 1976 được sự cho phép của Bổn Sư đưa Thầy về trụ trì Chùa Long Hòa, xã Ninh Huề Vạn Giả, Vạn Ninh Khánh Hòa tiếp tăng độ chúng, dìu dắt Thiện nam Tín Nữ tu học.

IV. Tìm một lối thoát:
Do chứng nghiệm cái chết của người mẹ nhờ nhất tâm niệm Phật mà biết trước ngày vãng sanh, tâm Thầy bừng sáng muốn đem đạo vào đời và luôn chí xuất ngoại mới có tự do thực hiện tâm nguyện. Ngày đêm Ngài trì Chú Đại Bi 108 biến và niệm Phật kiên cố nên mọi chướng duyên đều vượt qua. Chí hướng muốn đem hai môn Tịnh, Mật đã áp dụng truyền lại người sau. Tâm thành đã sẵn, việc đến đã đến. Ngày 29 tháng 6 năm 1988 chuyến ra đi vượt biên thành công như ý nguyện. Qua tới Phillippines ở trại Palawan 20 tháng mới được phái đoàn Mỹ phỏng vấn nhận đi định cư, Ngài được chuyển trại đến Palawan (Phi) ở thêm 4 tháng nữa.

  • Năm 1990 ngày 21 tháng 3 Ngài đặt chân tới đất nước tự do Hoa Kỳ ở tiểu bang Connecticut được một tháng, sau đó dời về California từ năm 1990 cho tới nay. Sau khi được định cư Hòa Thượng một mặt lo tìm nơi thích hợp dùng để thờ tự Tam Bảo và mặt khác cũng cố tạo phương tiện tài chánh trùng tu ngôi chùa quê bên Việt Nam và hoàn tất pho tượng Phật Quan Âm lộ thiên đang tạo dở dang. Nhờ hồng ân chư Phật, chư Tổ, Long Thiên hộ pháp gia hộ những tâm ước nguyện chân thành của Ngài đã đạt thành viên mãn vào những năm sau đó. Theo như lời Ngài thổ lộ rằng rất mãn nguyện khi lập xong nhà thờ từ đường phụng thờ ông bà, cha mẹ, vì biết rằng người xuất gia không thể trực tiếp lo việc hiếu sự như người thường khác được. Việc ra đi tìm tự do của Ngài nhằm đáp ứng hai mặt: đạo pháp và hiếu nghĩa như hoài bão thập niên 80 thể hiện rõ nét nhất là sau khi mẫu thân mất (1985).
  • Về đạo pháp: Hòa Thượng luôn giữ sơ tâm xuất gia, cho dù sống ở sứ sở văn minh vật chất hàng đầu thế giới, Ngài vẫn sống đạm bạc, an nhẫn góp phần chung lo Phật sự cùng với chư tôn đức tăng ni Việt Nam hải ngoại, và mặt khác luôn hướng dẫn hàng Phật tử tại gia tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cực lạc quốc.
  • Về hiếu nghĩa: bổn phận đối với gia đình, Hòa Thượng chu toàn nơi thờ phượng người thân tươm tất, chốn lễ bái nghiêm trang cho người Phật từ địa phương thực hành đạo pháp.

V. Hoằng Pháp:
Từ ngày đến Mỹ, Hòa Thượng cùng với bào đệ đồng thời cũng là pháp đệ Thiện Tường mua căn nhà số 682 28th street, Oakland – California cải gia vi tự. Sửa sang lại biến nhà thành ngôi chùa Phật đường phụng thờ tam bảo.

  • Năm 1991: lễ khánh thành An Tường Tự Viên được long trọng tổ chức ngày 19 tháng 9 nhân lễ vía Quán Âm Bồ Tát, Và cũng chính trong dịp lễ quan trọng này Ngài chính thức nhận Trụ Trì An Tường Tự Viện.
  • Năm 1994: tổ chức lễ lạc thành tượng đài Quan Âm lộ thiên tại Chùa Mỹ Phước – Đà Nẵng sau hơn 13 năm ngưng trệ do hoàn cảnh khó khăn mọi mặt.
  • Năm 2000: Đàn đầu Hòa Thượng Giới Đàn Quang Nghiêm I, Stockton, California được tổ chức trong những ngày 17, 18 và 19 tháng 9 nhân dịp lễ vía Bồ Tát Quán Thế Âm.
  • Năm 2001: Ngài đứng ra cổ vũ các Phật tử thân tín cúng tịnh xây mới lại Chùa Mỹ Phước tại làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Ngôi Chùa kiến trúc nửa kim nửa cổ có tầm vóc trong Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
  • Năm 2005: Đàn đầu Hòa Thượng Giới Đàn Quang Nghiêm II nhân ngày vía đức Phật Thành Đạo ( 1/1/2005) Hòa Thượng cũng làm chứng mình đạo sư, y chỉ sư cho chư Tăng Ni tại miền Bắc California – Hoa Kỳ và tại Việt Nam. Tự Viện An Tường ngày nay là một đạo tràng mà người Phật tử tại gia có tín tâm theo pháp môn Tịnh Độ do Hòa Thượng trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo. Đi tới đâu Ngài cũng khuyến tấn người Phật Tử tinh chuyên niệm Phật cầu thoát ly sanh tử luân hồi về cõi tịnh lạc Tây Phương.

VI. Trọn Thành Tâm Nguyện:
Hơn 50 năm hành đạo, Hòa Thượng đã vận dụng không ngừng huyễn thân giả tạm trong việc tu tập đạt thành tâm nguyện. Đã có lúc Ngài không màng đến thân xác, phát nguyện đốt ngón tay cúng dường Chư Phật hai lần đều trọn vẹn viên mãn. Cũng như qua hai lần chích máu tả Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện và Kinh A Di Đà, hai lần tịnh tu (1962 – 1966) và khổ hạnh (1975 – 1977). 25 năm (1960- 1985). Dùng ngọ và 5 năm ngủ ngồi và nhiều hạnh tu khác khó ai có thể theo kịp. Ngài quyết chí theo hạnh nguyện Bồ Tát xả thân vì đạo nên dù có mất đi một phần cơ thế, sức khỏe có suy giảm, nhưng chí kiên cường, tâm thiết thạch sáng ngời chất mà vượt qua tất cả. Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, do vậy Ngài khuyên các đệ tử: Các con đừng sợ mà phải đối diện với tử thần từng giờ từng phút, để có thì giờ lao công phu tu tập cho sâu bền.
Chính vì lẽ đó, Ngài an tường xá bảo thân tứ đại lúc 14h 00 ngày 11/12/2014 (nhằm 20/11 năm Giáp Ngọ) trụ thế 78 năm tuổi 51hạ lạp.
Vâng theo lời dạy thực tế và hạnh tu cao của Thầy, đệ tử chúng con quyết khắc phục mọi nghịch cảnh thành thuận duyên trên đường tu tập, ngỏ hầu báo đáp công ơn giáo dưỡng của Thầy trong muôn một.

Nam Mô Lâm Tế Chúc Thánh tứ thập tam thế An Tường đường thượng
thượng Đồng hạ Đạt tự Thông Đạt hiệu Thanh An giác linh Hòa Thượng
thùy từ chứng giám.

 

todinhlinhson.com | hình ảnh tang lễ